Dự thảo Thông tư liên tịch quy định về thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc

Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp xây dựng và đã hoàn thành dự thảo Thông tư liên tịch quy định về thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc; Dự thảo gồm 05 chương 25 điều.


Theo đó, Thông tư liên tịch này quy định về nguyên tắc thi hành án tử hình, ra quyết định thi hành án tử hình, thành lập Hội đồng thi hành án tử hình, tổ chức thực hiện việc thi hành án tử hình, hoãn thi hành án tử hình, hồ sơ thi hành án tử hình, việc cho nhận, mai táng tử thi, tro cốt, hài cốt đã bị thi hành án tử hình và trách nhiệm của các cơ quan: Công an, Quân đội, Y tế, Ngoại giao, Tài chính, Tòa án và Viện kiểm sát trong việc tổ chức thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc.

* Việc ra quyết định thi hành án tử hình được quy định tại Điều 5 với nội dung như sau:

- Theo đó, sau khi kiểm tra hồ sơ của người bị kết án tử hình, xác định người bị kết án không thuộc trường hợp không áp dụng hình phạt tử hình quy định tại Khoản 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án theo quy định tại Điều 77 Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

- Trường hợp trong một vụ án có nhiều người bị kết án tử hình thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền phải ra quyết định thi hành án đối với từng người bị kết án tử hình trong vụ án đó.

- Ngoài ra, trường hợp một người bị kết án tử hình nhiều lần do nhiều Tòa án khác nhau tuyên án, thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm lần cuối cùng đã tuyên án tử hình có trách nhiệm ra quyết định thi hành án tử hình đối với người bị kết án tử hình đó.

* Điều 10 quy định về việc hoãn thi hành tử hình, theo đó Hội đồng thi hành án tử hình quyết định hoãn thi hành án tử hình quy định tại điểm b, điểm c Khoản 1 Điều 81 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 trong các trường hợp sau đây:

- Có thông tin do người bị kết án hoặc người khác khai báo hoặc do Hội đồng thi hành án tử hình biết được từ những nguồn tin khác, mà xét thấy những thông tin này là có căn cứ và có thể làm thay đổi cơ bản nội dung vụ án hoặc là chứng cứ để khởi tố vụ án mới, người phạm tội mới và nếu thi hành hình phạt tử hình đối với họ thì có thể gây khó khăn lớn cho việc giải quyết vụ án, việc mở rộng điều tra vụ án.

- Hội đồng thi hành án tử hình nhận được yêu cầu của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an hoặc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc hoãn thi hành án tử hình.

- Bên cạnh đó, còn có các trường hợp khác, cụ thể là: 

+ Trường hợp gặp thiên tai, hỏa hoạn hoặc có trở ngại khách quan khác, không thể thực hiện được việc thi hành án tử hình hoặc trên đường áp giải người bị thi hành án tử hình bị tai nạn phải đưa đến bệnh viện;  

+ Trường hợp trang thiết bị, dụng cụ thi hành án tử hình bị hư hỏng; không lấy được tĩnh mạch; thuốc thi hành án tử hình không đúng chủng loại, chất lượng, số lượng hoặc các điều kiện khác bảo đảm cho việc thi hành án tử hình không đáp ứng được;

+ Trường hợp đã thi hành án tử hình theo đúng quy định của pháp luật nhưng người bị thi hành án không chết.

* Điều 21 việc làm đơn xin nhận tử thi, tro cốt như sau:

- Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định thi hành án tử hình, Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án phải thông báo cho thân nhân hoặc người đại diện hợp pháp của người bị thi hành án tử hình biết để làm đơn xin nhận tử thi, tro cốt của người đã bị thi hành án tử hình.

- Đơn xin nhận tử thi, tro cốt của người bị thi hành án tử hình phải được gửi cho Chánh án Tòa án đã ra thông báo quy định tại Khoản 1 Điều này trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo. Đơn xin nhận tử thi, tro cốt về mai táng phải bảo đảm các nội dung được quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 83 Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Toàn văn dự thảo Thông tư liên tịch được đăng trên Cổng thông tin điện tử Bộ Công an (đường link: http://bocongan.gov.vn/van-ban/van-ban-du-thao.html) để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân trong thời gian 02 tháng kể từ ngày đăng.