Công an nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước
(5/1954 - 4/1975)
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, đã giành được những thắng lợi to lớn, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới với nhiều thuận lợi nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Sự lớn mạnh của Liên Xô, sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới, thắng lợi mới của phong trào độc lập dân tộc cùng với xu thế hòa bình, trung lập là những yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của cách mạng. Song, ngay sau khi thực dân Pháp rút khỏi Đông Dương, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam, thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam.
Ngày 01/6/1954, Mỹ đưa Đại tá Lênxđên cầm đầu toán tình báo CIA đến Sài Gòn với chiêu bài “giúp đỡ người Việt” trong việc huấn luyện chống chiến tranh du kích. Ngày 13/6/1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về miền Nam để lập chính phủ mới. Ngày 08/8/1954, Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ đã quyết định tiến hành kế hoạch thôn tính miền Nam Việt Nam. Chúng ồ ạt đưa hàng trăm cố vấn quân sự, tình báo, gián điệp vào miền Nam nước ta.
Để kịp thời lãnh đạo cách mạng trong tình hình mới, tháng 7/1954, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày báo cáo, trong đó nêu rõ: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ... Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ”(1). Ngày 05/9/1954, Bộ Chính trị họp và ra Nghị quyết về “Tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng”. Nghị quyết vạch rõ những đặc điểm của cách mạng nước ta, trong đó đặc điểm quan trọng nhất là đất nước tạm thời chia cắt thành hai miền. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới được xác định là: “Nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta chưa phải đã hoàn thành, cuộc đấu tranh ái quốc không vì đình chiến mà kết thúc, cuộc đấu tranh đó còn đang tiếp tục, nhưng phương thức đấu tranh còn phải thay đổi. Chúng ta cần hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc trong hình thức đấu tranh mới. Vì vậy... nhiệm vụ chung của Đảng ta là: đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến... để củng cố hòa bình, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất...; giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, đặng củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc”(2). Trước tình hình, nhiệm vụ, yêu cầu mới của cách mạng, cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự xã hội ở cả hai miền Nam Bắc diễn ra ngày càng cam go, phức tạp, quyết liệt, đòi hỏi lực lượng Công an phải nhanh chóng chuyển hướng tổ chức và hoạt động để đáp ứng với cuộc đấu tranh ở mỗi miền, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.Ở miền Bắc, trước khi thực dân Pháp rút quân, tình báo Pháp và Mỹ (CIA) lợi dụng thời gian chuyển quân tập kết tiến hành kế hoạch kích động, dụ dỗ, cưỡng ép số nhân viên ngụy quân, ngụy quyền của chế độ cũ và đồng bào Công giáo di cư vào Nam nhằm gây rối an ninh, trật tự miền Bắc và tạo thực lực, chỗ dựa khi phải thực hiện Tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước. Chúng cấp tốc tuyển chọn, huấn luyện gián điệp, cài cắm vào một số cơ quan, đơn vị trọng yếu và các thành phố, thị xã vùng mới giải phóng, hình thành “đội quân ngầm” chống phá cách mạng. Chúng chỉ đạo bọn tay chân cất giấu vũ khí, điện đài, phương tiện hoạt động gián điệp, chuẩn bị cho kế hoạch chống phá cách mạng trước mắt và lâu dài. Mỹ thỏa thuận với Pháp bàn giao lại mạng lưới gián điệp của Pháp ở miền Bắc để phân loại, chuyển vùng và tạo vỏ bọc cho số bị lộ, sắp xếp, bố trí vào những địa bàn quan trọng về chính trị, kinh tế, quân sự. Chúng tung hàng trăm tên gián điệp, biệt kích xuống các tỉnh biên giới Đông Bắc và Tây Bắc nước ta móc nối với tàn quân phỉ, bọn phản động. Ngoài ra, đế quốc Mỹ còn sử dụng bọn tình báo, gián điệp của các nước đồng minh và bọn đặc vụ Tưởng để chống phá miền Bắc.

Lực lượng Công an tham gia tiếp quản thị xã Hòn Gai, tỉnh Quảng Ninh,năm 1954
Ảnh: Tư liệu/Bộ Công an
Trước âm mưu và hoạt động của Mỹ, tháng 4/1955, Bộ Công an tổ chức Hội nghị Bảo vệ chính trị lần thứ hai. Hội nghị xác định nhiệm vụ trọng tâm của Công an ở miền Bắc là: Đánh mạnh vào những hoạt động gián điệp ở miền Bắc của bọn đế quốc Mỹ, Pháp, Anh do đế quốc Mỹ cầm đầu và bọn tay sai của chúng là đặc vụ Tưởng; tích cực đập tan âm mưu và những hoạt động phá hoại có mục đích phản cách mạng của các đảng phái phản động,phản động trong tôn giáo, phản động trong tầng lớp trên của dân tộc thiểu số, các tổ chức và cá nhân phản cách mạng ẩn núp ở thành thị và nông thôn; tích cực phát hiện và thanh trừng những phần tử gián điệp, phản động núp trong nội bộ cơ quan, trường học, công xưởng của ta.
Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, Công an nhân dân đã vận động quần chúng phối hợp chặt chẽ với Mặt trận dân tộc thống nhất và các lực lượng, các ngành, đặc biệt là với quân đội nhanh chóng tiếp quản các thành phố, thị xã, vùng mới giải phóng; đấu tranh chống âm mưu dụ dỗ, kích động, cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam của địch. Cuộc đấu tranh diễn ra hết sức gay go, phức tạp và quyết liệt ở hầu hết các tỉnh, thành phố ở miền Bắc, đặc biệt ở những nơi tập trung đồng bào Công giáo. Kết quả ta đã làm thất bại kế hoạch thâm độc, xảo quyệt của Mỹ - Diệm.
Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm, thâm độc của hoạt động gián điệp, lực lượng Công an phát động mạnh mẽ phong trào quần chúng “Bảo vệ trị an”, “Bảo mật phòng gian”, đẩy mạnh tấn công
chính trị vào hàng ngũ bọn phản cách mạng, kết hợp các biện pháp nghiệp vụ, lập chuyên án đấu tranh và khám phá hàng chục tổ chức gián điệp do Mỹ, Pháp cài lại, thu hàng chục tấn vũ khí, điện đài. Điển hình là, chuyên án đấu tranh với tổ chức gián điệp do Camille chỉ huy, chuyên án C30 do Trần Minh Châu (tức Cập) chỉ huy; chuyên án GM65 do tên Hoàng Văn Măng phụ trách...kịp thời ngăn chặn âm mưu phá hoại của chúng.
Ở các tỉnh biên giới phía Bắc, lực lượng Công an phối hợp với bộ đội vận động quần chúng tiến hành tấn công chính trị kết hợp với biện pháp vũ trang vào bọn phỉ, bọn đặc vụ Tưởng và bọn phản động, kết quả ta đã bắt, diệt và làm tan rã hàng nghìn tên, thu nhiều vũ khí, giải quyết triệt để vấn đề phỉ, làm thất bại hoàn toàn âm mưu của địch xây dựng căn cứ, tập hợp lực lượng chống phá ta ở vùng biên giới phía Bắc. Đến năm 1960, Công an nhân dân đã căn bản bóc gỡ toàn bộ mạng lưới tình báo, gián điệp của Mỹ - Pháp ở miền Bắc, làm phá sản kế hoạch hậu chiến của bọn thực dân, đế quốc.
Cùng với cuộc đấu tranh chống gián điệp, lực lượng Công an tăng cường công tác điều tra, phát hiện và lập nhiều chuyên án đấu tranh có hiệu quả với các tổ chức phản động, đặc biệt là đấu tranh với tổ chức phản động “Mặt trận chống cộng miền Bắc”, nhóm “Nhân văn - Giai phẩm”, tổ chức phản động “Đại Việt duy dân”, dập tắt các vụ “xưng vua, đón vua”, kịp thời trấn áp những vụ bạo loạn vũ trang như vụ Dào San, vụ Hồ Thầu ở Phong Thổ (Lai Châu), đặc biệt là vụ bạo loạn ở Đồng Văn (Hà Giang) cuối năm 1959, đầu năm 1960. Lực lượng Công an còn tham gia tích cực trong công tác cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, nông nghiệp; khắc phục hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chế độ cũ để lại; đấu tranh chống tội phạm hình sự, giữ gìn an ninh, trật tự, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tạo thế và lực cho cách mạng miền Nam.
Trước sự lớn mạnh không ngừng của cách mạng Việt Nam, đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược. Đối với miền Bắc nước ta, chúng tăng cường chiến tranh gián điệp, gián điệp biệt kích, chiến tranh tâm lý hòng làm cho ta mất ổn định về chính trị, suy yếu về kinh tế, quốc phòng, ngăn chặn sự chi viện từ hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn. Chúng tập trung hoạt động thu thập tin tức tình báo về chủ trương, đường lối cách mạng miền Nam của Đảng ta; sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Trung Quốc và Liên Xô, đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của ta để phục vụ cho những bước leo thang chiến tranh của chúng. Điểm đáng chú ý là chúng tập trung điều tra những địa điểm quân sự, kho tàng, nhà máy, cầu cống của ta, các tuyến đường giao thông huyết mạch vận chuyển chi viện cho miền Nam; móc nối với các tổ chức phản động để tập hợp lực lượng hòng thực hiện âm mưu “trong nổi dậy, ngoài đánh vào” thôn tính miền Bắc.
Đế quốc Mỹ và tay sai đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, sử dụng một số đối tượng vốn là cán bộ, bộ đội của ta nhưng đầu hàng để xuyên tạc, tung tin thất thiệt về tình hình chiến sự ở miền Nam; sử dụng đài “Gươm thiêng ái quốc” phát sóng hằng ngày nhằm gây hoang mang, dao động, gây chia rẽ trong nội bộ ta. Chúng còn cho máy bay, tàu, thuyền thả hàng chục tấn truyền đơn, đài, quần áo, hàng hóa vào miền Bắc. Mỹ triệt để sử dụng bọn tình báo, gián điệp núp dưới danh nghĩa nhân viên trong các cơ quan thường trú lâm thời hoạt động ở miền Bắc nước ta để thu thập thông tin. Chúng thành lập các trung tâm huấn luyện gián điệp, biệt kích ở miền Nam để xâm nhập bằng đường biển, vượt tuyến bằng đường không vào miền Bắc. Từ năm 1961 đến năm 1965, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tung 53 toán với 442 tên gián điệp, hơn 100 tấn gồm vũ khí, máy thông tin liên lạc, thuốc nổ cực mạnh, nhu yếu phẩm vào các tỉnh Vĩnh Linh, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Hòa Bình. Khi tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, hoạt động xâm nhập gián điệp, biệt kích của Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng gia tăng. Trong 10 năm từ năm 1961 đến năm 1970, địch đã tung hơn 103 toán gián điệp, biệt kích với hàng trăm tấn vũ khí, thuốc nổ, phương tiện thông tin liên lạc vào miền Bắc.
Để kịp thời đối phó với âm mưu xảo quyệt và hoạt động liều lĩnh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 66-CT/TW, ngày 11/9/1963 về việc tiến hành khẩn trương công tác để sẵn sàng đập tan âm mưu của Mỹ và chính quyền Sài Gòn tung gián điệp, biệt kích ra phá hoại miền Bắc nước ta. Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư, lực lượng Công an chủ động tham mưu cho cấp ủy đảng ở các địa phương tổ chức các hội nghị tổng kết phong trào quần chúng phòng, chống gián điệp, biệt kích; tăng cường chỉ đạo kiểm tra việc xây dựng và hướng dẫn thực tập các phương án, kế hoạch phòng, chống gián điệp, biệt kích; tích cực thực hiện chủ trương cải tạo tại chỗ các loại đối tượng mà kẻ địch thường chú ý lợi dụng.
Được Mỹ hậu thuẫn, Ngô Đình Diệm tăng cường củng cố quyền lực bằng cách loại bỏ các phần tử thân Pháp, đưa lực lượng Công giáo nắm giữ các vị trí quan trọng, then chốt trong bộ máy chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Chúng dùng mọi thủ đoạn thủ tiêu những tổ chức, cá nhân đối lập, dẹp các giáo phái, thiết lập và phát triển các tổ chức tình báo gián điệp mang tên “Sở nghiên cứu chính trị xã hội”, “Đoàn công tác đặc biệt miền Trung”, “Cơ quan diệt trừ sốt rét”, cơ quan “Dân ý vụ”... Chúng sử dụng các tổ chức này để khủng bố, tàn sát đẫm máu những người yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ với chính sách “tố cộng, diệt cộng”. Mỹ - Diệm tiến hành đôn quân bắt lính, tiếp tục mở các cuộc hành quân càn quét với quy mô ngày một lớn, triệt phá cơ sở cách mạng, bắn giết, bắt bớ đồng bào ta, biến miền Nam thành trại tập trung khổng lồ.
Trước âm mưu và thủ đoạn thâm độc của địch, lực lượng công an tại miền Nam đã nhanh chóng bố trí đưa các đồng chí hoạt động công khai hoặc bị lộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp tập kết ra Bắc, một số đồng chí được phân công ở lại để tiếp tục hoạt động. Tháng 10/1954, Xứ ủy Nam Bộ thành lập Ban địch tình. Lực lượng công an đã tham gia Ban địch tình, kết hợp với tình báo quân đội điều tra nắm tình hình, phát hiện âm mưu, hoạt động của địch, tham mưu cho các cấp ủy có chủ trương, biện pháp, đối sách kịp thời chống càn quét, khủng bố, chống chính sách “tố cộng, diệt cộng” của Mỹ - Diệm, bảo vệ các cơ sở cách mạng, bảo vệ Đảng, bảo vệ lực lượng và phong trào cách mạng. Lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ ngụy quyền, lực lượng Công an xây dựng cơ sở, khoét sâu mâu thuẫn để gây chia rẽ, ly gián trong nội bộ của chúng.
Trong quá trình bám đất, bám dân để bảo vệ Đảng, bảo vệ phong trào cách mạng, trước sự đàn áp khốc liệt, dã man của kẻ thù, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ Công an miền Nam đã kiên cường đấu tranh, anh dũng hy sinh, góp phần làm nên phong trào Đồng khởi cuối năm 1959, đầu năm 1960, đưa cách mạng miền Nam bước sang giai đoạn mới.

Các chiến sĩ trinh sát của “Đội chống gián điệp, biệt kích” Bộ Công an giám sát nhân viên điện đài của toán gián điệp,
biệt kích liên lạc về Trung tâm chỉ huy ở Sài Gòn
Ảnh: Tư liệu/Bộ Công an
Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Lực lượng cách mạng ngày càng phát triển, mở rộng. Trước những cuộc đấu tranh mạnh mẽ và dồn dập của quân và dân ta, đế quốc Mỹ cho tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, xương sống của chiến lược này là tập trung dồn dân, lập “ấp chiến lược” nhằm tách lực lượng cách mạng ra khỏi quần chúng để thực hiện thủ đoạn “tát nước bắt cá”. Về mặt quân sự, Mỹ cho tiến hành kế hoạch “chống nổi dậy” (CIP) ở miền Nam nhằm phục vụ gom dân lập ấp chiến lược. Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ xây dựng kế hoạch mang tên Xtalây - Taylo với nội dung cơ bản là tăng cường quyền lực của phái đoàn cố vấn quân sự, triển khai lực lượng yểm trợ, đưa quân và phương tiện chiến tranh vào miền Nam hòng “bình định” miền Nam trong vòng 18 tháng. Mỹ tài trợ cho chính quyền Sài Gòn thành lập “Phủ đặc ủy Trung ương tình báo” hoạt động song song với “Sở nghiên cứu chính trị xã hội”, “Nha cảnh sát đặc biệt”, “Lực lượng đặc nhiệm” và thành lập “Nha cảnh sát quốc gia”, đưa tổ chức, bộ máy tình báo, gián điệp và các cơ quan đàn áp, kìm kẹp của Mỹ và chính quyền Sài Gòn lên tới hàng chục vạn tên. Đặc biệt, trong giai đoạn này, địch tiến hành chiến lược “Tình báo đại chúng” hòng thực hiện âm mưu “tình báo hóa nhân dân”, xây dựng mạng lưới gián điệp, chỉ điểm rộng rãi trong các tôn giáo, các dân tộc, để điều tra tin tức, tìm kiếm cơ sở, lực lượng của ta phục vụ cho việc khủng bố, đàn áp của chúng.
Tháng 10/1961, Trung ương Cục miền Nam quyết định đổi tên Ban Bảo vệ an ninh Xứ ủy thành Ban Bảo vệ an ninh Trung ương Cục, sau là Ban An ninh Trung ương Cục, do đồng chí Phan Văn Đáng, Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam làm Trưởng ban. Đến năm 1962, Ban Bảo vệ an ninh khu, tỉnh, thành phố, huyện được thiết lập ở hầu hết các địa phương thuộc vùng giải phóng và vùng tranh chấp, nhiều nơi thành lập đến cấp xã.
Ngày 20/7/1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 34/LCL công bố Pháp lệnh quy định nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng Cảnh sát nhân dân và Pháp lệnh quy định chế độ cấp bậc sĩ quan, hạ sĩ quan Cảnh sát nhân dân.

Lớp lớp cán bộ, chiến sĩ Công an Hà Nội hăng hái lên đường chi viện cho An ninh miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Ảnh: Công an thành phố Hà Nội
Cùng với sự chi viện của Công an miền Bắc, công tác tuyển chọn, bồi dưỡng về nghiệp vụ được tăng cường, bộ máy an ninh các cấp không ngừng được kiện toàn, phát triển, bảo đảm yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Ngày 09/10/1963, Trường An ninh Trung ương Cục miền Nam ra đời theo Chỉ thị số 69/CT, ngày 30/9/1963 của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam nhằm đào tạo, bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ cho lực lượng An ninh, phục vụ yêu cầu chiến đấu của chiến trường miền Nam, góp phần vào thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Cũng trong năm 1963, Ban An ninh Trung ương Cục tiến hành Hội nghị An ninh toàn miền lần thứ nhất để bàn nhiệm vụ trọng tâm và thống nhất cơ chế chỉ đạo giữa Ban an ninh các cấp. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ chung của lực lượng An ninh miền Nam là: “Ra sức ngăn ngừa và đánh bại mọi âm mưu, hoạt động gián điệp, phản động, bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng miền Nam, đồng thời tích cực góp phần bảo vệ miền Bắc”. Hội nghị xác định ba nhiệm vụ chính là:
- Ra sức đánh bại mọi âm mưu, hoạt động của các tổ chức gián điệp, phản động, phá hoại cách mạng trên mọi lĩnh vực, mọi địa bàn bằng cách trấn áp bọn ngoan cố, bọn nguy hiểm, đồng thời tranh thủ giáo dục, cải tạo những cơ sở xã hội phức tạp mà địch có thể lợi dụng được.
- Ra sức khắc phục mọi sơ hở của ta, nâng cao cảnh giác, phòng gian bảo mật, bảo vệ nội bộ, bảo vệ việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, chống sự lũng đoạn và phá hoại của địch.
- Thực hiện nhiệm vụ đánh địch trước, đồng thời tích cực chuẩn bị điều kiện, chủ động trấn áp bọn gián điệp, phản động sau khi cách mạng thành công.
Sau Hội nghị, lực lượng An ninh toàn miền đã phát động phong trào “Bảo mật phòng gian”, kết hợp các biện pháp nghiệp vụ điều tra phát hiện, bóc gỡ hàng chục vụ nội gián địch cài cắm vào các cơ quan Đảng, Mặt trận và lực lượng cách mạng của ta; đẩy mạnh công tác diệt ác, trừ gian, phá ấp chiến lược và chính quyền địch, thiết lập chính quyền cách mạng, giải phóng đồng bào ta khỏi ách kìm kẹp của địch. Từ năm 1961 đến năm 1965, lực lượng An ninh miền Nam đã khám phá 458 vụ nội gián; phát động 19.463.606 lượt quần chúng đứng lên đấu tranh, phá 4.248 ấp chiến lược, 10 khu trù mật ở 87 xã, giải phóng hàng chục vạn dân. Riêng năm 1965, ta đã vận động quần chúng phá 1.601 ấp chiến lược, đưa gần mười ngàn quần chúng trở lại sinh sống ở xã, ấp cũ. Lực lượng An ninh đã góp phần bắt, diệt 39.038 tên địch, đưa hơn 2 vạn tên đi giáo dục, cải tạo. Ở các vùng căn cứ, giải phóng, lực lượng An ninh đã góp phần bảo vệ các cơ quan của Đảng, bảo vệ các lực lượng giải phóng miền Nam Việt Nam. Những thành quả của lực lượng An ninh miền Nam trong giai đoạn này đã góp phần to lớn cùng quân và dân ta đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Chiến sĩ An ninh vũ trang tháo bom của địch lấy thuốc nổ chế tạo vũ khí đánh địch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Ảnh: Tư liệu/Bộ Công an
Thất bại nặng nề trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã liều lĩnh ồ ạt đưa quân Mỹ và quân chư hầu vào miền Nam để thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ác liệt đối với miền Bắc. Mục tiêu của chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ là: Tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta; bình định nông thôn, mở rộng quyền kiểm soát, củng cố ngụy quân, ngụy quyền; tăng cường đánh phá miền Bắc để ngăn chặn sự chi viện giữa hậu phương và tiền tuyến.
Để thực hiện mục tiêu trên, Mỹ và chính quyền Sài Gòn liên tục mở những cuộc càn quét lớn, dài ngày đánh chiếm các căn cứ, tìm diệt các cơ quan đầu não, lực lượng chủ lực của ta trên khắp các vùng, các chiến trường vào hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967.
Cùng với việc mở rộng chiến tranh ở miền Nam, đế quốc Mỹ dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” (tháng 8/1964) để leo thang chiến tranh phá hoại, đánh phá bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Ngày 05/8/1964, đế quốc Mỹ cho nhiều tốp máy bay xâm phạm vùng trời miền Bắc, bắn phá các cơ sở kinh tế quốc phòng, khu dân cư của ta ở các địa điểm Hòn Gai (Quảng Ninh), Lạch Trường (Thanh Hóa), Cửa Hội, Vinh (Nghệ An), cảng Sông Gianh (Quảng Bình). Từ tháng 6/1965, máy bay Mỹ đã đánh vào vùng ngoại thành Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng hòng đe dọa, gây sức ép với nhân dân ta.
Trước tình hình trên, Hội nghị lần thứ 11 (tháng 3/1965) và lần thứ 12 (tháng 12/1965) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III trên cơ sở đánh giá tình hình đã khẳng định quyết tâm đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Quán triệt thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, ở miền Bắc, từ ngày 26 đến ngày 28/5/1965, Bộ Công an tổ chức Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 20 (bất thường) ra Nghị quyết về nhiệm vụ công tác Công an trong tình hình mới, trong đó nêu rõ: Đẩy mạnh hơn nữa phong trào bảo vệ trị an; bảo vệ nội bộ; công tác cải tạo; công tác đấu tranh chống phản cách mạng; công tác giữ gìn trật tự, trị an; điều tra nghiên cứu; nếu nơi nào có thể bị địch tạm chiếm đóng thì phải điều tra nắm tình hình địch và tiến hành trừ gian, diệt tay sai; mạnh dạn chuyển hướng công tác tổ chức và tư tưởng của lực lượng Công an nhân dân cho phù hợp với tình hình mới. Tháng 5/1965, Bộ Công an tổ chức Hội nghị xây dựng lực lượng Công an nhân dân lần thứ ba nhằm đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, trên cơ sở đó để chuyển hướng mạnh mẽ về công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thông qua các cuộc vận động, giáo dục chính trị lớn như học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III, quán triệt Chỉ thị số 35-CT/TD, ngày 11/10/1966 của Bộ Công an về phát động phong trào thi đua “Vì an ninh Tổ quốc, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược”, lực lượng Công an các cấp đã giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ thống nhất, tin tưởng chấp hành các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao nhiệt tình cách mạng, ý chí chiến đấu, vượt mọi khó khăn, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, hoàn thành tốt nhiệm vụ ở bất cứ nơi nào khi Tổ quốc yêu cầu.
Về tổ chức bộ máy, biên chế của Công an nhân dân được kiện toàn theo hướng tinh giản ở cơ quan Bộ, củng cố các sở, ty Công an, tăng cường cho Công an huyện. Ở cơ quan Bộ cũng như các địa phương, các đơn vị chiến đấu được tăng cường lãnh đạo chỉ huy. Để tăng cường sự thống nhất trong chỉ đạo, chỉ huy đối với nhiệm vụ bảo vệ đất nước, chống những hoạt động vũ trang khiêu khích, phá hoại của địch, ngày 28/4/1965, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 116-NQ/TW về việc phân công nhiệm vụ giữa Quân đội nhân dân và lực lượng Công an nhân dân vũ trang trong việc bảo vệ trị an ở miền Bắc và điều chỉnh tổ chức lực lượng Công an nhân dân vũ trang. Nghị quyết nêu rõ: “Lực lượng Công an nhân dân vũ trang là một thành phần trong Lực lượng Công an nhân dân có nhiệm vụ: Bảo vệ trị an biên giới, giới tuyến, bờ biển chủ yếu bằng biện pháp chính trị và nghiệp vụ công an. Vũ trang trực tiếp bảo vệ các lãnh tụ, các cơ quan đầu não của Đảng và Nhà nước, các cơ quan ngoại giao, các vị khách nước ngoài của Đảng và Nhà nước, các cơ sở kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật trọng yếu. Vũ trang canh giữ các trại giam”1. Thực hiện Nghị quyết số 116-NQ/TW, Bộ Công an đã tăng cường xây dựng lực lượng Công an nhân dân vũ trang, tăng cường cán bộ, chiến sĩ cho những đồn, đội công tác ở những nơi xung yếu, các lực lượng nghiệp vụ và trực tiếp tham gia chiến đấu bắn máy bay địch, bảo vệ mục tiêu. Trong những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, Công an nhân dân vũ trang đã góp phần cùng quân và dân bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, bảo vệ biên giới và các mục tiêu nội địa trọng yếu.
Cuộc đấu tranh giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội diễn ra rất quyết liệt ở miền Bắc trong bối cảnh địch mở rộng chiến tranh phá hoại ngày càng ác liệt. Từ các trung tâm huấn luyện gián điệp biệt kích ở miền Nam và nước ngoài, đế quốc Mỹ liên tiếp tung gián điệp biệt kích bằng đường không, đường biển và đường bộ vào các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình để gây cơ sở, thu thập tin tức tình báo và tiến hành các hoạt động phá hoại.
Trước tình hình đó, ngày 13/3/1967, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 145-CT/TW về giữ vững an ninh miền Bắc, đối phó với bước leo thang mới của đế quốc Mỹ. Chỉ thị nêu rõ: Để đập tan mọi âm mưu phá hoại của địch, cuộc đấu tranh chống phản cách mạng, giữ vững an ninh miền Bắc của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong thời gian tới phải đạt các yêu cầu: Phục vụ tốt cho việc tăng cường sự đoàn kết nhất trí và nâng cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, làm thất bại mọi hoạt động gián điệp và chiến tranh tâm lý của địch. Nghiêm ngặt bảo vệ bí mật nhà nước, tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi hoạt động tình báo của bọn gián điệp. Bảo vệ tốt cán bộ và các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, bảo vệ tốt công cuộc xây dựng kinh tế, các lực lượng vũ trang và các hoạt động quân sự, các đường giao thông vận chuyển, bảo vệ tốt tài sản của Nhà nước, chống mọi hành động phá hoại, tham ô, trộm cắp và lãng phí. Giữ vững trật tự, an ninh miền Bắc, kịp thời ngăn chặn và đập tan mọi hoạt động gây rối trị an của bọn phản động trong nước, giữ gìn trật tự xã hội, đấu tranh chống các tệ nạn xã hội. Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng, xác định công tác chống gián điệp biệt kích là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, Bộ Công an chủ động xây dựng nhiều kế hoạch phòng ngừa, truy lùng gián điệp biệt kích cho từng địa bàn. Lực lượng trinh sát chống gián điệp được tăng cường, triển khai các phương án đấu tranh, hướng dẫn các khu, sở, ty Công an và các đơn vị nghiệp vụ. Vận dụng những kinh nghiệm đã rút ra trong công tác đấu tranh chống gián điệp biệt kích những năm trước, lực lượng Công an ở các vùng ven biển, biên giới đã tiến hành thực tập nhiều phương án chiến đấu, bao vây, truy lùng biệt kích trong các tình huống khác nhau. Với phương châm “Giữ dưới đất là chính, giữ bên trong là chính”, ở các vùng xung yếu, Công an các địa phương tích cực phát động quần chúng đấu tranh chống các đối tượng phản động, làm trong sạch địa bàn, điều chuyển những đối tượng nguy hiểm về trật tự, trị an ra khỏi các địa bàn xung yếu. Thông qua công tác phái khiển, công tác trinh sát kỹ thuật và khai thác những tên biệt kích bị bắt, lực lượng Công an đã nắm được âm mưu, kế hoạch, thủ đoạn hoạt động của gián điệp biệt kích, kịp thời hướng dẫn các địa phương chủ động đối phó, truy kích, bao vây và bắt gọn nhiều toán. Từ năm 1965 đến năm 1968, lực lượng Công an đã phát hiện, đón bắt 26 toán gồm 142 tên gián điệp biệt kích, thu nhiều vũ khí, phương tiện hoạt động. Điển hình, tại Sơn La, từ tháng 7/1964 đến tháng 10/1965, lực lượng Công an lập chuyên án SM21 bắt 4 toán gián điệp gồm 23 tên, thu nhiều hàng hóa của địch; tại Quảng Bình, lực lượng Công an đấu tranh chuyên án có bí số K38 và khống chế toán gián điệp biệt kích mang tên Romeo1.
Trong đấu tranh chống phản động, nhất là lực lượng phản động lợi dụng Thiên Chúa giáo, vấn đề nắm được âm mưu, thủ đoạn hoạt động của số cầm đầu là hết sức quan trọng. Vì vậy, Công an các địa phương đã chủ động bắt, tập trung giáo dục cải tạo những đối tượng lợi dụng tôn giáo, tiến hành giáo dục tại chỗ, có kế hoạch theo dõi, giám sát số tay sai đắc lực của các đối tượng phản động; đẩy mạnh công tác cải tạo các chánh trương, trùm trưởng và hội đoàn; vận dụng những quy định về phòng không sơ tán để đẩy đuổi số đối tượng này ra khỏi các địa bàn xung yếu. Cùng với đó, lực lượng Công an đấu tranh có hiệu quả với các đối tượng, tổ chức phản động khác, trong đó đấu tranh với số cán bộ đảng viên thoái hóa về tư tưởng chính trị, bị móc nối, lôi kéo và có hoạt động chống đối quan điểm của Đảng (X77). Nhằm ngăn chặn hoạt động của phản động trong số tề, ngụy, phỉ cũ, hạn chế đi đến xóa bỏ cơ sở xã hội của chúng, Công an các địa phương tiến hành rà soát, lập danh sách số đối tượng cần cải tạo tại chỗ. Đến cuối năm 1966, Công an 5 địa phương là Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Vĩnh Linh đã căn bản hoàn thành việc triển khai công tác cải tạo tại chỗ, bước đầu thu được những kết quả, góp phần hạn chế hoạt động chống đối của số tề, ngụy, phỉ, đảng phái phản động cũ.
Tại các vùng miền núi Tây Bắc, Đông Bắc, trước tình hình hoạt động “gây phỉ”, “xưng vua” tiếp tục gây mất trật tự trị an, lực lượng chống phản động đã phối hợp với Công an các tỉnh vùng núi và biên giới triển khai các kế hoạch tiễu phỉ, dập tắt các vụ “xưng vua”, “đón vua” do các đối tượng phản động lợi dụng dân tộc thiểu số gây ra; đẩy mạnh công tác tập trung giáo dục cải tạo, ngăn chặn số phỉ cũ trốn sang Lào và gián điệp biệt kích từ Lào xâm nhập qua biên giới câu kết với các đối tượng phản động trong nội địa gây rối. Ở một số huyện miền núi tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn La, Lai Châu, lực lượng Công an nhân dân vũ trang đã phối hợp với bạn Lào truy quét phỉ Vàng Pao hoạt động ở vùng biên giới Việt - Lào; “đồng cam cộng khổ” với đồng bào dân tộc, kiên trì vận động quần chúng đấu tranh với các hoạt động xâm canh, xâm cư, xâm phạm cột mốc biên giới, bảo vệ an ninh biên giới, giữ gìn độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Chiến tranh phá hoại miền Bắc do đế quốc Mỹ gây ra đã tác động đến mọi hoạt động của các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện. Nhiều cơ quan, đơn vị phải sơ tán về nông thôn; sinh hoạt của cán bộ, công nhân viên chức và lực lượng vũ trang đã chuyển sang thời chiến. Một số cơ quan, doanh trại quân đội, nhà máy, xí nghiệp, kho tàng trở thành những mục tiêu đánh phá của địch. Tình hình đó đặt ra cho công tác bảo vệ nội bộ nhiều vấn đề mới cần giải quyết, “không những phải làm tốt công tác bảo vệ nơi đóng cơ quan hiện nay mà phải làm tốt công tác bảo vệ nếu cơ quan lãnh đạo di chuyển đến nơi mới”1. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, Công an các địa phương đã đẩy mạnh phong trào “Bảo mật phòng gian”, xây dựng các cơ quan, xí nghiệp, đơn vị an toàn, tăng cường công tác bảo vệ các cơ quan đầu não và cán bộ lãnh đạo ở Trung ương, bảo vệ tuyệt đối an toàn cho các cơ quan và cán bộ trong mọi tình hình. Lực lượng Công an còn phối hợp với các ngành có liên quan vận động quần chúng thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về phòng không sơ tán, giữ gìn bí mật quốc gia, tôn trọng các thể lệ, quy định của chính quyền địa phương và hợp tác xã nông nghiệp, góp phần giữ gìn trật tự, trị an. Ở nhiều nơi, lực lượng Công an tích cực tuyên truyền thời sự, tổ chức cho cán bộ, nhân viên học tập nội quy bảo vệ cơ quan, xí nghiệp, nâng cao tinh thần cảnh giác, phát hiện những người lạ mặt và hiện tượng nghi vấn báo cho cơ quan công an; đồng thời phối hợp với bảo vệ cơ quan tổ chức ngụy trang, che phòng bến bãi, kho tàng; bổ sung các nội quy bảo vệ, quản lý tài liệu, bảo vệ bí mật quốc gia.
Trong công tác bảo vệ, lực lượng Công an triển khai nhiều biện pháp và phương án bảo vệ, bảo đảm tuyệt đối an toàn các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các đoàn khách quốc tế. Đặc biệt, ngày 18/4/1966, chiến sĩ Cảnh vệ Nguyễn Thị Ngọc Đoàn dũng cảm lấy thân mình che chở cho đồng chí Alica Zanizet - Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Vênêzuêla trên đường đi thăm Quảng Ninh gặp máy bay Mỹ ném bom bắn phá, để lại ấn tượng tốt đẹp với khách quốc tế đến Việt Nam.
Trong hoàn cảnh đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, mọi hoạt động từ tập trung chuyển sang phân tán, từ thành thị chuyển về nông thôn, nên công tác bảo đảm trật tự, an toàn xã hội được đặc biệt quan tâm.
Thực hiện công tác phòng không nhân dân, theo chức năng, nhiệm vụ được phân công, lực lượng Công an tích cực vận động nhân dân sơ tán, tránh những mục tiêu, địa bàn có thể bị địch đánh phá, nhanh chóng giải quyết giấy tờ, thủ tục di chuyển cho nhân dân đến địa điểm mới. Lực lượng cảnh sát khu vực và công an xã có trách nhiệm nắm tình hình, quản lý cán bộ và nhân dân đi sơ tán, tổ chức tuần tra canh gác và làm tốt công tác bảo vệ.
Tại những nơi có các cơ quan và nhân dân đến sơ tán, lực lượng Công an đã lập phiếu quản lý đối tượng, trao đổi với địa phương nơi sơ tán tiếp tục quản lý, theo dõi. Đặc biệt, thời kỳ này, nhân dân, học sinh, cán bộ, công nhân viên ở các thành thị phải sơ tán về nông thôn, tài sản, vật tư của Nhà nước bị phân tán, việc vận chuyển hàng cho chiến trường ngày càng lớn, nền nếp quản lý kinh tế, xã hội bị buông lỏng. Lợi dụng tình hình đó, hoạt động của các loại tội phạm gia tăng và diễn biến phức tạp. Nhận thức rõ yêu cầu, nhiệm vụ, lực lượng Công an đã sử dụng các biện pháp nghiệp vụ, vừa tiến hành phòng ngừa tội phạm, vừa tích cực điều tra khám phá các vụ án, tiến hành điều tra cơ bản, lập hồ sơ chính trị xã, khu phố, cơ quan, xí nghiệp. Công tác điều tra, khám phá án hình sự đạt tỷ lệ trên 40% tổng số vụ việc xảy ra; với các vụ án kinh tế, nhất là án tham ô, trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, lực lượng Công an tập trung mọi lực lượng, sử dụng đồng bộ các biện pháp công tác, phát động quần chúng đấu tranh tố giác hành vi trộm cắp, tham ô; tỷ lệ điều tra khám phá đạt trên dưới 51%, trong đó trộm cắp tài sản đạt 57%, tham ô đạt 43%1. Thông qua công tác điều tra, lực lượng Công an đã phát hiện những sơ hở thiếu sót trong quản lý xã hội, quản lý kinh tế, kịp thời kiến nghị với các ngành, các cấp, các địa phương có biện pháp khắc phục, hạn chế điều kiện để tội phạm lợi dụng hoạt động.
Xác định công tác bảo vệ các hoạt động giao thông vận chuyển, nhất là các tuyến đường chiến lược quan trọng là một trong những nhiệm vụ cấp bách, lực lượng Công an đã bám sát kế hoạch vận chuyển, phối hợp các lực lượng khác tập trung bảo vệ bí mật các kế hoạch vận chuyển, bảo vệ hàng hóa, phương tiện vận tải trên đường vận chuyển và bảo đảm giao thông thông suốt. Với ý chí quyết tâm “Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm”, lực lượng Cảnh sát bảo vệ giao thông đã đồng sức, đồng lòng phối hợp với thanh niên xung phong và công nhân cầu đường kiên cường bám trụ, anh dũng và sáng tạo mở đường thông tuyến, bảo vệ an toàn phương tiện, hàng hoá, giữ vững mạch máu giao thông cho những đoàn xe, đoàn quân ra tiền tuyến. Đặc biệt, tại ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh) - yết hầu giao thông trên con đường Trường Sơn chiến lược, Tiểu đội Cảnh sát giao thông Ngã ba Đồng Lộc gồm 11 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Nguyễn Tiến Tuẩn làm Tiểu đội trưởng đã ngày đêm bám đường, bám cầu phà, phương tiện xe, thuyền và kho tàng, bến bãi. Mặc dù đế quốc Mỹ liên tục đánh phá, dội xuống hàng chục ngàn quả bom các loại với âm mưu biến nơi đây thành tọa độ chết hòng cắt đứt sự chi viện sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam, nhưng với quyết tâm khắc phục khó khăn, không sợ hy sinh, gian khổ, Tiểu đội đã hướng dẫn cho hàng vạn chuyến xe vượt trọng điểm an toàn, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ trật tự và giữ vững mạch máu giao thông cho những đoàn quân, chuyến hàng ra tiền tuyến. Trong hai năm 1965 - 1967, Tiểu đội đã cứu được hàng trăm xe, hàng ngàn tấn hàng hoá, vũ khí, đạn dược của Nhà nước, của quân đội ra khỏi nơi bom đạn ác liệt của kẻ thù.
Triển khai công tác phòng cháy, chữa cháy, lực lượng Công an đã vận động, giáo dục quần chúng nâng cao ý thức phòng ngừa, phát triển thêm lực lượng phòng cháy, chữa cháy nhân dân ở ngoài xã hội cũng như trong cơ quan xí nghiệp; gắn liền việc phòng cháy, chữa cháy với nhiệm vụ chiến đấu và sản xuất, do đó những lần địch bắn phá, các vụ cháy được dập tắt nhanh chóng, hạn chế được thiệt hại tài sản của Nhà nước và của nhân dân, đặc biệt là chiến công dập tắt vụ cháy ở tổng kho xăng Đức Giang (Hà Nội) ngày 29/6/1966. Sau 17 giờ chiến đấu với giặc lửa, Đội Phòng cháy chữa cháy Công an Thành phố Hà Nội phối hợp với lực lượng chữa cháy ở các địa phương lân cận đã cứu được 12 bể xăng lớn và hàng nghìn phuy xăng gồm 23 triệu lít trong tổng số
25 triệu lít xăng.
Với thắng lợi trên mặt trận giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội miền Bắc, lực lượng Công an đã góp phần làm thất bại từng bước leo thang chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, góp phần cùng miền Nam đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”.
Ở miền Nam, trước âm mưu, hoạt động của địch, Trung ương Cục chỉ đạo lực lượng An ninh các cấp đẩy mạnh hoạt động trên các chiến trường, phối hợp với lực lượng vũ trang và quần chúng tiến công địch bằng cả chính trị và vũ trang, quyết tâm đập tan mọi âm mưu hoạt động của chúng. Lực lượng an ninh nhân dân đã đi sâu nắm tình hình và đề xuất các chủ trương, biện pháp đối phó kịp thời với các cuộc hành quân, càn quét dữ dội của địch; đẩy mạnh diệt ác, trừ gian, trừng trị những tên tình báo, gián điệp, cảnh sát ác ôn nguy hiểm ngay trong các thành phố, thị xã, làm cho chúng hoang mang, dao động ngay cả nơi mà chúng cho là an toàn nhất.
Lực lượng An ninh toàn miền còn tích cực tham gia vận động quần chúng phá kế hoạch bình định của địch, giải phóng quần chúng khỏi ách kìm kẹp của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Đáng chú ý là chiến công của lực lượng An ninh Sài Gòn - Gia Định (T4), An ninh miền Đông đã kết hợp với lực lượng vũ trang và quần chúng đập tan cuộc càn quét Áttơborơ gồm Lữ đoàn 196 Mỹ, Sư đoàn 25 “Tia chớp nhiệt đới”, một bộ phận Lữ đoàn dù 173 Mỹ, 1 trung đoàn xe bọc thép có từ 350 - 400 xe, sử dụng 7 - 8 tiểu đoàn pháo 105, 175, 203mm (khoảng 130 khẩu), 7 đại đội đặc biệt ngụy, chưa kể lực lượng địa phương quân. Tham gia cuộc càn quét này địch huy động khoảng 28.000 quân tham chiến, có máy bay chiến lược B.52 và các loại máy bay chiến đấu khác yểm trợ, tấn công vào khu tam giác sắt: Bến Cát, Củ Chi, Trảng Bàng nhằm đánh sập địa đạo, san ủi địa hình, tiêu diệt lực lượng cách mạng, phá nát căn cứ Sài Gòn - Gia Định của ta.
Trong hơn 20 ngày đêm, các lực lượng vũ trang, an ninh khu Sài Gòn - Gia Định và Thủ Dầu Một đã dũng cảm chiến đấu liên tục, tiêu diệt 3.200 tên địch, phá hủy 140 xe tăng, xe bọc thép, bắn cháy 25 máy bay, bắn chìm 2 tàu chiến của địch, khiến chúng phải chịu những tổn thất nặng nề.
Sau thất bại cuộc càn quét Átơborơ, Mỹ và chính quyền Sài Gòn điên cuồng mở tiếp cuộc càn quét với quy mô lớn mang tên Gianxơn Xity, huy động 45.000 quân, 1.200 xe bọc thép, xe tăng, hàng ngàn xe cơ giới, 200 khẩu pháo cỡ lớn, hàng trăm máy bay, trong đó có cả máy bay chiến lược B.52, đánh vào căn cứ Bắc Tây Ninh nhằm phá hủy căn cứ kháng chiến, tiêu diệt cơ quan đầu não, tiêu hao lực lượng chủ lực Quân giải phóng, chiếm Đài phát thanh của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, phá kho tàng, dự trữ hậu cần, chia cắt khu căn cứ mà từ lâu chúng coi là “Vùng đất thánh”.
Được sự chỉ đạo của Trung ương Cục, lực lượng vũ trang Quân giải phóng và Trung đoàn 180 an ninh vũ trang miền Nam và các cơ quan dân, chính, đảng đã chiến đấu liên tục suốt 51 ngày đêm, bảo vệ an toàn tuyệt đối các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Nhiều cán bộ, chiến sĩ an ninh đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến đấu này.
Trong hai năm 1966 - 1967, các lực lượng an ninh miền Nam đã sát cánh cùng quân và dân miền Nam chiến đấu kiên cường, mưu trí, sáng tạo ở khắp các vùng chiến lược, trên khắp các chiến trường, đập tan kế hoạch phản công chiến lược mùa khô của địch. Để cứu vãn tình thế liên tiếp thất bại, đầu năm 1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn quyết định đưa thêm vào miền Nam 24.000 quân, đồng thời bổ sung nhân viên tình báo, lập ra các trung tâm tình báo hỗn hợp ở Sài Gòn, Cần Thơ, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, trực tiếp chỉ đạo hoạt động tình báo, gián điệp, cảnh sát ngụy và phối hợp thu thập tin tức chiến trường. Để che giấu bộ mặt, cơ quan CIA của Mỹ ở miền Nam đổi tên thành “Cơ quan phối trí an ninh bình định”, và củng cố tổ chức “Trung ương tình báo” của chính
quyền Sài Gòn.
Căn cứ những điều kiện chính trị, quân sự của ta và địch, trong nước và trên thế giới, tháng 12/1967, Bộ Chính trị họp ra Nghị quyết tổng công kích, tổng khởi nghĩa với mục tiêu là nhằm đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, tạo điều kiện giành độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập ở miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước; thời gian tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa được chọn vào dịp Tết Nguyên đán Mậu Thân năm 1968. Nghị quyết của Bộ Chính trị được Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III thông qua tháng 01/1968.
Thực hiện chủ trương của Đảng, lực lượng Công an miền Bắc và An ninh miền Nam tập trung lực lượng triển khai phục vụ tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Ở miền Bắc, Đoàn Thanh niên Bộ Công an đẩy mạnh phong trào “Ba sẵn sàng”, phát động phong trào tuổi trẻ công an tình nguyện lên đường chi viện An ninh miền Nam.
Ở miền Nam, Ban An ninh Trung ương Cục và Đảng ủy cơ quan Ban An ninh Trung ương Cục nhanh chóng quán triệt tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III về tổng công kích, tổng khởi nghĩa cho cán bộ, đảng viên; đồng thời triển khai Chỉ thị số 32/CT, ngày 15/12/1967 của Thường vụ Trung ương Cục miền Nam về nhiệm vụ, phương hướng công tác an ninh trong thời gian tới, với nhiệm vụ cụ thể trong đợt tổng công kích, tổng khởi nghĩa là hướng vào các đô thị, thị xã, thị trấn và các vùng xung yếu, phối hợp với các lực lượng vũ trang khác và lực lượng chính trị của quần chúng đẩy mạnh trừ gian, diệt ác, hạ uy thế của địch, tạo thế cho phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân nổi dậy, tiến lên tiêu diệt các cơ quan đầu não, các tổ chức công an, tình báo của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, các đảng phái phản động của địch.
Trong cuộc tổng tiến công, các ban an ninh từ Trung ương Cục đến các khu, tỉnh, thành, huyện và cơ sở trong toàn miền Nam đã huy động 3.346 lượt cán bộ, chiến sĩ xung phong lên tuyến đầu, phối kết hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ nổi dậy, tấn công mạnh mẽ vào các cơ quan đầu não, bộ máy kìm kẹp, hệ thống giao thông, sân bay, kho tàng, trại giam của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Thông qua các biện pháp nghiệp vụ và qua khai thác những tên địch bị bắt, an ninh các cấp đã nắm được nhiều tình hình về âm mưu, kế hoạch hoạt động của địch, phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, phục vụ công tác đánh địch, truy bắt những đối tượng nguy hiểm.
Trên các mũi tiến công vào thành phố, thị xã, thị trấn, các lực lượng an ninh tích cực thực hiện công tác bảo vệ, làm nhiệm vụ dẫn đường và cùng các lực lượng vũ trang khác từ bên ngoài tấn công, phối hợp với sự nổi dậy của quần chúng, lực lượng tại chỗ, bắt, diệt 15.135 tên địch, trong đó có 1.359 tên tình báo các loại, 35 tên gián điệp, 1.766 cảnh sát, 632 tên bình định nông thôn, 269 tình báo an ninh quân đội ngụy, 492 tên ác ôn. Hệ thống kìm kẹp của địch bị tan rã nặng nề. Một số tên trưởng, phó ty, cuộc cảnh sát, quận ủy Quốc dân Đảng bị trừng trị. Một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh của địch bị phá hủy.
Công tác đào tạo cán bộ cho lực lượng An ninh miền Nam cũng được chú trọng, thành lập trường An ninh và hệ thống các trường, đặc biệt Trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ An ninh miền Nam (E1171) đã đào tạo, bồi dưỡng hàng nghìn cán bộ phục vụ cho cách mạng. Những chiến công của lực lượng An ninh miền Nam và sự chi viện kịp thời của Bộ Công an đã góp phần vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, đánh dấu sự phá sản của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh và ngồi đàm phán với ta ở Hội nghị Pari.
Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam đầu năm 1969, Tổng thống Níchxơn quyết định đề ra Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam Việt Nam, “dùng người Việt đánh người Việt” bằng vũ khí, trang bị và sự chỉ huy của Mỹ, tập hợp, liên minh với các loại phản động khu vực nhằm cô lập và tiêu diệt cách mạng Việt Nam, đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần hai ở miền Bắc.
Để đạt được mục tiêu trên, đế quốc Mỹ đã sử dụng sức mạnh tối đa về quân sự, cùng một lúc sử dụng ba loại hình chiến tranh: giành dân, bóp nghẹt và hủy diệt, trong đó nhiệm vụ trung tâm là bình định nông thôn, kết hợp với những thủ đoạn chính trị và ngoại giao hòng giành thế mạnh, cô lập cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Ngày 10/5/1969, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 188-NQ/TW “Về tình hình và nhiệm vụ”. Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ trước mắt là: “Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền, phát huy thắng lợi đã giành được, tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh ba mũi giáp công, kết hợp với tiến công ngoại giao, ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị; phát triển chiến lược tiến công, đánh bại âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh và chủ trương “phi Mỹ hóa” chiến tranh của chúng, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà”.
Giữa lúc nhân dân ta đang nỗ lực khôi phục kinh tế ở miền Bắc và đẩy mạnh kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam, ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam từ trần. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô cùng đau xót trước tổn thất to lớn này. Trung ương Đảng quyết định tổ chức lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Thủ đô Hà Nội với nghi thức trọng thể nhất. Ngày 03/9/1969, Lãnh đạo Bộ Công an ra Chỉ thị số 71-CT/BCA gửi các đơn vị, các Khu, Sở, Ty Công an, yêu cầu các đơn vị, địa phương làm tốt công tác bảo vệ; tuyệt đối giữ vững an ninh ở Thủ đô và trong toàn quốc. Lực lượng Công an đã tham gia bảo vệ tuyệt đối an toàn các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, các đoàn khách quốc tế, đại biểu các ngành, các địa phương và các tầng lớp nhân dân đến viếng và dự lễ tang. Sáng ngày 9/9/1969, lực lượng Công an nhân dân tham gia bảo vệ tuyệt đối an toàn lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh do Đảng và Nhà nước ta tổ chức tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Biến đau thương thành hành động cách mạng, ngày 29/9/1969, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 173-CT/TW về đợt sinh hoạt chính trị học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, lực lượng Công an nhân dân trong cả nước đẩy mạnh các mặt công tác nắm tình hình, tích cực đấu
tranh chống phản cách mạng và các loại tội phạm khác, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Ở miền Bắc, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 24 (tháng 12/1969) ra Nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ của lực lượng Công an là: “Giữ vững trật tự an ninh miền Bắc, bảo vệ Đảng, bảo vệ ba cuộc cách mạng, đồng thời phục vụ tốt cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và công tác an ninh miền Nam”. Đồng thời, Nghị quyết cũng đưa ra bốn nhiệm vụ công tác chính của lực lượng Công an: kiên quyết đánh bại mọi âm mưu, hoạt động của các đối tượng phản cách mạng; đẩy mạnh các mặt công tác bảo vệ; giữ gìn trật tự, trị an xã hội; kiên quyết chấn chỉnh tổ chức, giảm nhẹ biên chế, đào tạo cán bộ.
Trên lĩnh vực xây dựng lực lượng, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Công an nhân dân, ngày 27/11/1969, Đảng đoàn Bộ Công an đề nghị Ban Bí thư Trung ương Đảng cho thành lập Đảng đoàn các khu, sở, ty Công an. Ngày 28/8/1970, Ban Bí thư đã ban hành Quyết định số 202-QĐ/TW thành lập Đảng đoàn ở các khu, sở, ty Công an.
Trên lĩnh vực đấu tranh chống gián điệp, tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 23, Bộ Công an đã nhận định: “Dù trong tình huống nào thì hoạt động gián điệp và chiến tranh tâm lý của địch sẽ tăng lên và phải rất cảnh giác với âm mưu diễn biến hòa bình của chúng”. Trên thực tế, dù buộc phải đơn phương chấm dứt chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân, song đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục chiến tranh gián điệp, chiến tranh tâm lý, kích động phản động gây rối miền Bắc về mọi mặt, ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam.
Trước tình hình đó, đối với số gián điệp ẩn nấp, Bộ Công an ra Chỉ thị số 349-K48I, ngày 11/4/1969 về đấu tranh chống âm mưu của đế quốc Mỹ và tay sai tung gián điệp trà trộn trong số cán bộ, bộ đội bị địch bắt tha trở về miền Bắc (Phương thức P86). Thực hiện chỉ thị, Công an các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình và nhiều địa phương khác đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ trị an, bảo mật phòng gian và tăng cường công tác trinh sát, mở những đợt tấn công chính trị vào các đối tượng. Từ tháng 8/1968 đến tháng 8/1969, công an các địa phương miền Bắc đã bắt 28 vụ gồm 49 gián điệp P86 và phát hiện 194 đầu mối nghi vấn.
Đối với số gián điệp xâm nhập qua giới tuyến và biên giới, xâm nhập bằng đường biển hoặc từ miền Nam qua các nước khác để vào miền Bắc, lực lượng Công an kết hợp đồng bộ giữa biện pháp trinh sát với quản lý công khai, nắm chắc di biến động của đối tượng, đồng thời bảo vệ mục tiêu chặt chẽ không cho đối tượng tiếp cận.
Đối với gián điệp biệt kích, lực lượng Công an tiếp tục “đấu mưu đọ trí” với trung tâm địch qua vô tuyến điện, điều khiển trung tâm địch hoạt động theo sự sắp đặt của ta. Ngoài các toán do lực lượng Công an chủ động “điều ra” miền Bắc trong các chuyên án để bắt, lực lượng Công an còn nắm được thời gian, địa điểm các toán và số biệt kích sẽ xâm nhập, do vậy, hầu hết các toán gián điệp biệt kích tung ra miền Bắc bằng đường hàng không đều bị bắt gọn cùng toàn bộ phương tiện và hàng hóa. Cơ quan CIA, DIA và tình báo ngụy hoàn toàn thất bại trong quá trình thực hiện phương thức này hơn 10 năm.
Trên lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự, kinh tế, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết số 198/NQ-TW, ngày 18/4/1970 về tăng cường công tác quản lý xã hội, giữ gìn trật tự, trị an và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 21/10/1970 đã nhấn mạnh: lực lượng Công an cùng các ngành có liên quan, các cấp ủy và chính quyền địa phương đi sâu nắm tình hình hoạt động của các loại tội phạm; kiên quyết nhanh chóng xử lý các vụ vi phạm, phải nghiêm khắc trừng trị đối tượng lưu manh chuyên nghiệp, đối tượng côn đồ hung hãn, đối tượng gây ra những vụ án nghiêm trọng, đối tượng đầu cơ, chủ chứa; tăng cường công tác chống đầu cơ, trộm cắp, tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa; nghiên cứu bổ sung những luật cụ thể giữ gìn trật tự, trị an xã hội.
Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Công an các tỉnh, thành phố đã thông qua việc duy trì, đẩy mạnh phong trào bảo vệ trị an, tạo nên sức mạnh của toàn xã hội để phòng ngừa tội phạm. Ở nông thôn, Công an xã, Công an huyện tích cực vận động nhân dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh thôn xóm, thực hiện điều lệ an ninh nông thôn, bảo vệ hợp tác xã nông nghiệp, bảo vệ kho tàng, vật tư, hàng hóa, nhà máy xí nghiệp sơ tán, bảo vệ các tuyến vận chuyển chi viện cho chiến trường. Ở nhiều nơi, phong trào bảo vệ trị an được tổ chức hiệu quả, được báo cáo kinh nghiệm trong Hội nghị tổng kết phong trào bảo vệ trị an xây dựng xã vững mạnh về chính trị, trật tự, an ninh (tháng 8/1971). Điển hình có xã Trung Nghĩa (Hải Hưng) đã báo cáo kinh nghiệm về bảo vệ Đảng, bảo vệ hợp tác xã và bảo vệ quốc phòng; xã Hồi Ninh (Ninh Bình) báo cáo kinh nghiệm về công tác đấu tranh chống gián điệp, biệt kích.
Ở các thành phố, thị xã, cơ quan xí nghiệp, lực lượng Công an mở cuộc vận động sâu rộng trong toàn xã hội đấu tranh ngăn chặn, phát hiện tội phạm, nhất là số lưu manh chuyên nghiệp, tham ô, trộm cắp, buôn lậu, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và trật tự xã hội; tổ chức các lực lượng dân phòng, bảo vệ dân phố, bảo vệ cơ quan xí nghiệp tuần tra canh gác, phát hiện, ngăn chặn hành vi phạm pháp. Cuối tháng 8 và tháng 9/1971, miền Bắc trải qua trận lụt lịch sử, toàn bộ hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình đều bị nước lũ dâng cao; ở Hà Nội, đê Cống Thôn bị vỡ gây ngập lụt và thiệt hại nặng nề. Lực lượng Công an đã cùng các lực lượng khác tham gia khắc phục hậu quả lũ lụt, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Miền Bắc cơ bản ổn định, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, trị an ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất, kịp thời đáp ứng yêu cầu chi viện cho chiến trường miền Nam.
Trước nguy cơ chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” bị thất bại, nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường, từ tháng 4/1972, đế quốc Mỹ tập trung nhiều loại máy bay hiện đại, kể cả máy bay chiến lược B.52, cùng nhiều loại vũ khí, bom đạn có sức công phá mạnh, đánh phá ác liệt các mục tiêu quân sự, kinh tế, các khu đông dân cư, hệ thống đê điều, bệnh viện, trường học và các đầu mối giao thông. Cùng với việc gây chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai, đế quốc Mỹ đơn phương tuyên bố ngừng các phiên họp đàm phán tại Hội nghị Pari. Đặc biệt từ ngày 18 đến ngày 29/12/1972, Mỹ đã mở cuộc tập kích bằng không quân quy mô lớn vào Hà Nội, Hải Phòng và nhiều nơi khác. Lực lượng Công an đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng bảo vệ, công an xã, dân phòng, dân quân tự vệ và nhân dân bám sát vị trí chiến đấu, bảo đảm giao thông vận tải, tham gia cứu thương, cứu sập, tuần tra canh gác. Các lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy đã chiến đấu dũng cảm, dập tắt nhiều đám cháy do máy bay Mỹ gây ra, bảo vệ kho tàng, tàu thuyền, tài sản của Nhà nước và của nhân dân. Nhiều cán bộ, chiến sĩ
công an đã dũng cảm bám địa bàn, bám sát mục tiêu bảo vệ, phá bom mìn, mở những hướng vận chuyển mới, bảo đảm giao thông thông suốt.
Ở miền Nam, đế quốc Mỹ xây dựng và phát triển lực lượng công an, cảnh sát ngụy từ 20 vạn lên 30 vạn tên, 200 tổ chức tình báo gián điệp trá hình. Chúng thành lập tổ chức tình báo “Phượng hoàng” và triển khai xuống tận xã, ấp. Chúng đẩy mạnh bình định cấp tốc, sau đó là bình định phát triển. Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, địch đưa hàng nghìn tên bình định, 680.000 lính biệt động quân và hàng chục nghìn cảnh sát, nhân viên “Thiên nga”, “Phượng hoàng”, đồng thời tăng cường hàng vạn dân vệ, phòng vệ dân sự. Mỹ và chính quyền Sài Gòn thành lập thêm nhiều đồn bốt chi chít, dày đặc, tăng cường lực lượng tình báo, gián điệp xuống cơ sở để phục vụ cho các cuộc hành quân càn quét, đánh phá ác liệt. Ở khu Sài Gòn - Gia Định, chúng phát triển thêm lực lượng cảnh sát nội đô từ 50.000 tên lên 100.000 tên, thành lập tổ chức phòng vệ dân sự, thực hiện tình báo hóa, quân sự hóa, đảng phái hóa, tôn giáo hóa... Chúng mở các cuộc càn quét bịt các cửa ngõ ra vào thành phố và kiểm soát bắt bớ hết sức gắt gao. Đây là thời kỳ địch phản kích ta rất quyết liệt, cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn và tổn thất.
Trước âm mưu của Mỹ, thực hiện chủ trương chuyển hướng chiến lược của Trung ương Đảng, Đảng đoàn Bộ Công an chỉ đạo Công an các cấp tăng cường điều tra, nghiên cứu nắm tình hình, phát hiện gián điệp trà trộn trong số cán bộ, bộ đội bị địch bắt rồi sau đó tha trở về miền Bắc. Trên cơ sở các nguồn tin tình báo, thực hiện chỉ đạo của Đảng đoàn Bộ Công an, ngày 14/4/1969, Bộ Công an ra Chỉ thị số 349-K48I về đấu tranh chống âm mưu của đế quốc Mỹ đưa gián điệp trà trộn trong số cán bộ, bộ đội bị địch bắt tha trở về miền Bắc.
Ngày 01/02/1969, Ban An ninh Trung ương Cục ra Chỉ thị số 06/CT về công tác nắm tình hình địch. Chỉ thị xác định: Công tác an ninh là phải chủ động nắm toàn diện, cụ thể, chính xác về tổ chức, âm mưu, thủ đoạn, hoạt động của gián điệp Mỹ và chính quyền Sài Gòn, các tổ chức trá hình, các cơ quan đàn áp, bình định chiêu hàng và các đảng phái phản động, phải tập trung khai thác và thẩm tra xác minh các nguồn tin của các tổ chức quần chúng, các ngành, các giới cơ sở, tai mắt, số bị địch bắt tha về, bọn tề ngụy chạy ra vùng giải phóng để nắm tình hình phục vụ chủ động đánh bại âm mưu hoạt động gián điệp của địch. Ban An ninh Trung ương Cục đã phát động phong trào quần chúng đánh bại âm mưu của địch trong kế hoạch “Phượng hoàng”.
Thực hiện chủ trương của các cấp ủy đảng, các ban an ninh đã bố trí lực lượng điệp báo, lực lượng trinh sát vũ trang, an ninh vũ trang phối hợp với Quân giải phóng kiên trì bám trụ, bám dân để xây dựng lực lượng cơ sở và tổ chức tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược, gây cho chúng nhiều tổn thất; bảo vệ cơ sở cách mạng, các cơ quan của Đảng, Chính phủ Cách mạng lâm thời và Mặt trận Dân tộc giải phóng.

Lực lượng trinh sát vũ trang Ban An ninh tỉnh Mỹ Tho gài mìn chống địch lấn chiếm, bảo vệ căn cứ Tỉnh ủy, năm 1970
Ảnh: Tư liệu/Bộ Công an
Ngày 15/3/1972, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết số 165/TV-KBN về “Những vấn đề cơ bản về công tác an ninh nhân dân” chỉ rõ vị trí chiến lược, đường lối và nhiệm vụ của công tác an ninh, đồng thời khẳng định công tác an ninh là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống gián điệp và phản động, Đảng phải tăng cường xây dựng ngành an ninh thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và nghiệp vụ. Ngành an ninh phải bảo đảm tính đảng, tính quần chúng, tính chiến đấu.
Từ quý II năm 1972 đến hết năm 1973, Ban An ninh Trung ương Cục đã mở nhiều lớp tập huấn quán triệt nội dung Nghị quyết số 165/TV-KBN cho cán bộ, chiến sĩ an ninh và cụ thể hóa từng lĩnh vực công tác an ninh như: điệp báo, bảo vệ chính trị, trinh sát vũ trang, bảo vệ nội bộ, an ninh đô thị, chấp pháp... Lực lượng an ninh toàn miền đẩy mạnh hoạt động trên các chiến trường, góp phần cùng quân và dân miền Nam đánh bại kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của địch.

Hội nghị Bảo vệ chính trị toàn miền Nam lần thứ nhất của Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam, tháng 8/1973
Ảnh: Tư liệu/Bộ Công an
Ngày 15/3/1972, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam ra Nghị quyết số 165/TV-KBN về “Những vấn đề cơ bản về công tác an ninh nhân dân” chỉ rõ vị trí chiến lược, đường lối và nhiệm vụ của công tác an ninh, đồng thời khẳng định công tác an ninh là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống gián điệp và phản động, Đảng phải tăng cường xây dựng ngành an ninh thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và nghiệp vụ. Ngành an ninh phải bảo đảm tính đảng, tính quần chúng, tính chiến đấu.
Từ quý II năm 1972 đến hết năm 1973, Ban An ninh Trung ương Cục đã mở nhiều lớp tập huấn quán triệt nội dung Nghị quyết số 165/TV-KBN cho cán bộ, chiến sĩ an ninh và cụ thể hóa từng lĩnh vực công tác an ninh như: điệp báo, bảo vệ chính trị, trinh sát vũ trang, bảo vệ nội bộ, an ninh đô thị, chấp pháp... Lực lượng an ninh toàn miền đẩy mạnh hoạt động trên các chiến trường, góp phần cùng quân và dân miền Nam đánh bại kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” của địch.
Đến đầu năm 1973, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta giành được những thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng về quân sự, chính trị và ngoại giao, nhưng ngay sau khi ký Hiệp định Pari, đế quốc Mỹ tiếp tục thực hiện “Học thuyết Níchxơn” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, âm mưu duy trì chế độ thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta. Cùng với các hoạt động quân sự, đế quốc Mỹ và tay sai đẩy mạnh hoạt động gián điệp, chiến tranh tâm lý, ráo riết triển khai kế hoạch bình định, lấn chiếm vùng giải phóng, triển khai kế hoạch hậu chiến để chống phá cách mạng nước ta.

Lực lượng Công an bắt sống phi công Mỹ trong trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, cuối tháng 12/1972
Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam
Trước tình hình đó, ngày 28/01/1973, Trung ương Đảng ra lời kêu gọi nhân dân cả nước tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác, củng cố những thắng lợi đã đạt được, giữ vững hoà bình, hoàn thành độc lập dân chủ ở miền Nam, tiến tới hoà bình, thống nhất nước nhà. Tiếp đó, ngày 24/5/1973, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp, nhận định: Dù khả năng nào con đường của cách mạng miền Nam cũng chỉ có thể giành được thắng lợi bằng bạo lực cách mạng. Bất kỳ trong tình huống nào ta cũng phải nắm vững đường lối chiến lược tiến công để đưa cách mạng miền Nam tiến lên. Vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách mạng là yêu cầu bức thiết, cơ bản của cách mạng miền Nam.
Nhằm chủ động đối phó với mọi tình hình, ngay trước khi Hiệp định Pari được ký kết, từ ngày 05 đến ngày 13/01/1973, Bộ Công an tổ chức Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 27 nhằm tổng kết các mặt công tác Công an trong 7 năm chống chiến tranh phá hoại của Mỹ đối với miền Bắc (1965 - 1972) và dự báo khả năng phát triển của tình hình. Hội nghị ra Nghị quyết xác định nhiệm vụ công tác Công an trong tình hình mới: Phải ra sức phục vụ tốt nhất cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước, tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, giữ vững an ninh hậu phương trong bất kể tình huống nào, góp phần đánh bại mọi âm mưu và hoạt động của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc và tạo điều kiện vững chắc bảo đảm giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội, phục vụ đắc lực cho công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế một khi có giải pháp chính trị.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, ở miền Bắc, tổ chức bộ máy của lực lượng Công an được củng cố, kiện toàn bảo đảm phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng. Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an, ngày 22/2/1973, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 32/CP về “Sửa đổi tổ chức bộ máy của Bộ Công an”. Theo Nghị định, Công an nhân dân gồm ba lực lượng: An ninh nhân dân, Cảnh sát nhân dân và Công an nhân dân vũ trang, có nhiệm vụ đấu tranh chống mọi âm mưu hoạt động của bọn phản cách mạng, bọn tội phạm khác, giữ gìn trật tự an ninh nhằm bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ an ninh Tổ quốc. Nghị định còn quyết định chuyển giao nhiệm vụ bảo vệ nội địa từ Công an nhân dân vũ trang sang Cảnh sát nhân dân. Tổ chức bộ máy Công an nhân dân được tổ chức theo hướng chuyên sâu và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc đấu tranh trên mặt trận giữ gìn trật tự, trị an. Mặc dù có những thuận lợi nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ trật tự, trị an ở miền Bắc nước ta trong giai đoạn này cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp mới. Trước thắng lợi to lớn của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, hoạt động chống phá của các đối tượng phản động khác nảy sinh một số vấn đề phức tạp mới. Chúng nhen nhóm hình thành các nhóm, tổ chức rải tờ rơi, khẩu hiệu, thư nặc danh có tính chính trị phản động; tìm cách trốn vào Nam, sang Lào theo địch. Số vụ phạm pháp hình sự, tham ô trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, vi phạm về trật tự công cộng xảy ra nhiều, có nơi có lúc mang
tính chất rất nghiêm trọng. Bên cạnh đó, từ sau năm 1973, Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn duy trì các phương thức nội gián, lâm thời, thường trú và bắt cóc ngư dân khai thác, đánh trở lại với mục đích cố nắm được chủ trương, kế hoạch, thực lực của ta trong giải quyết vấn đề miền Nam. Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng và Lãnh đạo Bộ Công an về công tác đấu tranh chống gián điệp, lực lượng Công an đã xác minh địa bàn trọng điểm, đối tượng trọng điểm và triển khai các mặt công tác điều tra nắm tình hình.
Đối với gián điệp theo phương thức lâm thời và thường trú, lực lượng Công an tập trung nắm di biến động của nhân viên các đoàn cố định và lâm thời; quản lý chặt nhân viên cơ quan ngoại giao hoặc có nhiệm vụ quan hệ với người nước ngoài, mục tiêu người nước ngoài thường quan tâm. Thông qua công tác trinh sát bí mật và nguồn tin quần chúng, lực lượng Công an phát hiện được 128 đối tượng trong các đoàn lâm thời, thường trú có vấn đề nghi vấn, đã bí mật đấu tranh 5 chuyên án gồm 9 đối tượng.
Đối với gián điệp ẩn nấp, nhất là đối tượng thuộc diện P861, lãnh đạo Bộ Công an chỉ đạo phải đấu tranh với tinh thần kiên quyết, thận trọng, không để lọt đối tượng. Bộ tuyển chọn những cán bộ dày dạn kinh nghiệm thuộc hệ bảo vệ chính trị, bảo vệ nội bộ ở cơ quan và các địa phương, phối hợp với các ngành có liên quan làm nhiệm vụ tiếp nhận, trao trả tù, hàng binh theo Hiệp định Pari. Trong quá trình tiếp nhận, ta đã phát hiện hàng trăm đối tượng có dấu hiệu địch tuyển dụng, giao nhiệm vụ. Từ năm 1973 đến năm 1975, lực lượng Công an lần lượt xử lý toàn bộ những đối tượng P86 đã được địch đánh ra miền Bắc trước và trong thời kỳ trao trả; bóc gỡ toàn bộ điệp viên của “Kế hoạch Hải Yến” do CIA, Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiến hành từ năm 1969, bắt 8 điệp viên (7 điệp viên đánh ra miền Bắc, 1 điệp viên ở miền Nam).
Trong công tác đấu tranh chống phản động, nhất là phản động lợi dụng tôn giáo, công an các địa phương chú trọng kết hợp công tác tấn công chính trị nhằm cảm hoá hàng ngũ giáo sĩ và tiến hành cải tạo giáo hội cơ sở. Công an Hà Nội, Hải Phòng, Nam Hà, Ninh Bình, Nghệ An có kế hoạch toàn diện đối với từng địa phận, từng giám mục, linh mục ở từng nơi, từng xứ đạo, đồng thời có đối sách cụ thể đối với phản động lợi dụng Thiên Chúa giáo nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn những hoạt động chống đối, nhen nhóm tổ chức phản động dưới các hình thức “hội đoàn”.
Từ giữa năm 1973 đến đầu năm 1974, lực lượng Công an đã kịp thời phát hiện, dập tắt những hoạt động rải tờ rơi, khẩu hiệu, thư nặc danh phản động của một số phần tử bất mãn trong các vụ tổ chức phản động như “Người mất nước”, “Mặt trận gươm thiêng ái quốc”, “Đảng Cộng hòa”.
Trong công tác đấu tranh giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, Công an nhân dân luôn đóng vai trò là lực lượng thường trực, nòng cốt, xung kích, đồng thời là chỗ dựa của quần chúng, phát hiện đấu tranh với các loại tội phạm.
Trên mặt trận đấu tranh chống tội phạm hình sự, với tổ chức lực lượng cảnh sát hình sự được thành lập từ Trung ương đến địa phương theo Nghị định số 32/CP, công an các địa phương đã mở nhiều đợt tiến công, phát hiện trên 300 ổ nhóm hoạt động trộm cắp, cướp giật và cưỡng đoạt tài sản riêng của công dân, khám phá nhiều vụ án hình sự, kịp thời dập tắt những vụ gây rối trật tự xã hội. Đối với công tác phòng ngừa tội phạm, các biện pháp công tác Công an được đẩy mạnh để quản lý đối tượng, nắm địa bàn, phòng ngừa tội phạm. Bộ Công an đã tiến hành tổng kết một số biện pháp công tác và một số chuyên đề điều tra như: điều tra vụ án giết người, cướp của, điều tra các vụ trộm cắp, rút ra những kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả của công tác điều tra khám phá án. Công tác bắt giữ, xử lý có nhiều tiến bộ, nhất là việc Bộ Công an đã tiến hành tổng kết công tác bắt giữ, nghiên cứu ban hành chế độ bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét người, đồ vật, nhà ở. Đây là bước phát triển mới có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Những kết quả trong công tác bảo vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội đã góp phần tích cực vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc, dốc sức chi viện cho miền Nam đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai.
Ở miền Nam, Ban An ninh Trung ương Cục đã chỉ đạo an ninh các cấp kết hợp với các lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị của quần chúng đấu tranh chống địch càn quét, lấn chiếm, giữ vững vùng giải phóng, đồng thời khẩn trương thực hiện kế hoạch “Chồm lên chiếm lĩnh”, cắm cờ giành đất, giành dân hòng “xóa thế da báo”.
Từ tháng 02/1973 đến trước chiến dịch Đông Xuân 1974 - 1975, lực lượng an ninh miền Nam đã đẩy mạnh hoạt động nắm tình hình, kịp thời tham mưu cho các cấp ủy đảng có chủ trương đối phó với âm mưu, hoạt động của địch, bóc gỡ mạng lưới tình báo gián điệp, nội gián của địch, bảo vệ an toàn các cơ quan lãnh đạo của Đảng, các căn cứ cách mạng, bảo vệ lực lượng vũ trang, kho tàng, vũ khí, đạn dược; tổ chức những trận đánh vào các đô thị, căn cứ của địch gây cho chúng nhiều thiệt hại. Lực lượng an ninh kết hợp chặt chẽ với các lực lượng khác và sự nổi dậy của quần chúng tiến công địch, tiêu diệt và bắt sống hàng vạn tên, phá từng mảng đồn bốt địch, giải phóng hàng chục vạn đồng bào thoát khỏi kìm kẹp của địch, mở rộng vùng giải phóng.
Tháng 3/1975, mở màn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy là trận đánh then chốt vào thị xã Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Lực lượng An ninh đã góp phần bảo đảm bí mật kế hoạch chiến dịch đến giờ phút nổ súng, đồng thời bố trí cán bộ bám sát các mục tiêu trọng điểm, tập trung xây dựng cơ sở, đẩy mạnh hoạt động nội tuyến cung cấp cho ta bản đồ thị xã, xác định hệ thống bố phòng, những mục tiêu quan trọng của địch như Sở Chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy, các đồn cảnh sát để Bộ Chỉ huy Mặt trận bổ sung kế hoạch tấn công địch. Trước giờ nổ súng, ta triển khai kế hoạch đánh nghi binh, thu hút địch về hướng Pleiku, Kon Tum. Lực lượng an ninh tỉnh Đắk Lắk đã tham gia tiến công, đánh chiếm các mục tiêu được phân công. Lực lượng trinh sát vũ trang bám sát các mục tiêu, đối tượng, tấn công chiếm lĩnh các cơ quan của địch, các đảng phái phản động, Ty Cảnh sát, Tòa thị chính và các đồn cảnh sát ở thị xã.

Xe tăng Quân giải phóng tiến công thị xã Buôn Ma Thuột trong chiến dịch Tây Nguyên, ngày 10/3/1975
Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam
Thất thủ ở Tây Nguyên, địch tháo chạy về miền Trung. Ta tấn công địch trên nhiều hướng, đêm 18/3/1975, địch rút bỏ Quảng Trị chạy vào Huế và Đà Nẵng. Các lực lượng an ninh Thừa Thiên đẩy mạnh công tác nắm tình hình, mở đường và tham gia tiến công, truy kích địch, chiếm lĩnh các mục tiêu đã được phân công. Chiến thắng Quảng Trị, Thừa Thiên Huế đã tạo thế và lực mới để ta tiến lên giải phóng thành phố Đà Nẵng. Tại chiến trường Khu V, trước khi thành phố Huế được giải phóng, Thường vụ Khu ủy đã họp hạ quyết tâm “giải phóng Khu V trong thời gian ngắn nhất”, đập tan ý đồ co cụm của địch về Chu Lai để giữ Đà Nẵng. Kết hợp tiến công quân sự và nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng, các lực lượng an ninh Quảng Đà triển khai bảo vệ, tham gia các hướng tiến công địch tại thị xã Tam Kỳ, chiếm lĩnh các mục tiêu theo sự phân công, đánh chiếm trại giam, giải thoát số cán bộ và nhân dân bị địch bắt, giam giữ. Sau khi Quảng Đà được giải phóng, 181 cán bộ, chiến sĩ được huy động lên đường vào giải phóng Đà Nẵng. Ba đại đội an ninh vũ trang C111, C112, C114 và Ban An ninh Đà Nẵng phối hợp với lực lượng trinh sát vũ trang truy quét tàn binh, giữ gìn trật tự thành phố. Ngày 29/3/1975, Đà Nẵng hoàn toàn được giải phóng. Sau Đà Nẵng, ở phía nam Khu V và Khu VI, lực lượng an ninh cùng quân, dân Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đà Lạt, Tuyên Đức, Lâm Đồng nổi dậy tiến công địch.

Quân giải phóng tiến vào cổng Ngọ Môn (Huế), ngày 26/3/1975
Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam
Để thực hiện quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam của Bộ Chính trị, Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam đã đề ra nhiệm vụ, kế hoạch từng bước trong quá trình Tổng tiến công và chiếm lĩnh. Đồng chí Cao Đăng Chiếm, Phó Trưởng Ban An ninh Trung ương Cục được bổ sung vào Bộ Chỉ huy tiền phương và là Phó Chủ tịch Ủy ban quân quản, phụ trách an ninh nội chính với gần 1.500 cán bộ, chiến sĩ An ninh Trung ương Cục và đặc khu. Khoảng 1.000 cơ sở của Ban An ninh hoạt động trong các thành phố thực hiện nhiệm vụ tiêu diệt các hang ổ đề kháng của địch, đồng thời cùng lực lượng quân sự và quần chúng nhanh chóng chiếm lĩnh các mục tiêu, bảo vệ tài liệu thu giữ được, kịp thời ổn định an ninh trật tự, sinh hoạt bình thường cho nhân dân. Ban An ninh Trung ương Cục đã chỉ đạo cho an ninh các khu, tỉnh, thành phố, huyện, xã, ấp tham gia tích cực đánh chiếm các cơ quan đầu não, truy bắt ác ôn ngoan cố, thu giữ các tài liệu hồ sơ của địch.

Đoàn xe thô sơ của Lực lượng An ninh T4 vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975
Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam
Tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ, lực lượng an ninh chủ động trong công tác nắm tình hình, tham gia tiến công kìm chân địch, không để chúng có điều kiện ứng cứu cho Sài Gòn, đồng thời vận động quần chúng nổi dậy diệt ác, chiếm lĩnh các cơ quan, công sở, đập tan bộ máy đàn áp, các tổ chức tình báo, gián điệp, cảnh sát, bình định... của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Ngày 26/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh mở đầu bằng cuộc tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Trước sự tấn công như vũ bão của ta, lực lượng tay sai, tình báo, cảnh sát... tháo chạy tán loạn. Cố vấn Mỹ và chính quyền tay sai cấp cao dẫm đạp nhau trốn chạy.

Xe tăng Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập, Sài Gòn, trưa ngày 30/4/1975
Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam
Trong giờ phút hấp hối của chính quyền Sài Gòn, lực lượng cơ sở điệp báo A10 của An ninh T4 phối hợp với các lực lượng khác tiếp cận, tác động để Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn và phát lời tuyên bố của Tổng thống chính quyền Sài Gòn Dương Văn Minh trên Đài Phát thanh Sài Gòn lúc 9 giờ 30 phút ngày 30/4/1975. Trước khí thế áp đảo của cách mạng, sự tan rã, sụp đổ nhanh chóng của chính quyền tay sai và bộ máy kìm kẹp của địch, 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, Dương Văn Minh - Tổng thống cuối cùng của chính quyền Sài Gòn buộc phải đọc bản tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Trải qua 20 năm vừa kháng chiến chống đế quốc Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng Công an nhân dân đã đồng hành cùng dân tộc tiến hành cuộc đấu tranh khẩn trương, quyết liệt, phức tạp, gay go, đánh bại cuộc chiến tranh gián điệp, chiến tranh tâm lý của đế quốc Mỹ và tay sai; bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; trấn áp các hoạt động phá hoại, gây rối của bọn phản cách mạng và tội phạm khác; giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội ở miền Bắc trong điều kiện có chiến tranh phá hoại vô cùng ác liệt.

Lực lượng Công an bảo vệ Lễ mít tinh mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng, ngày 15/5/1975
Ảnh: Tư liệu/Bộ Công an
Từ năm 1961 đến năm 1975, Bộ Công an đã chi viện hàng nghìn lượt cán bộ, chiến sĩ hỗ trợ cho lực lượng an ninh miền Nam, đợt đầu các đồng chí là phó trưởng ty phụ trách an ninh, trưởng phòng, phó trưởng phòng ở một số cơ quan ngang bộ, lực lượng trinh sát kỹ thuật... làm nòng cốt, mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ; phát triển lực lượng tại chỗ, giúp lực lượng an ninh miền Nam phát triển nhanh chóng, đủ sức triển khai các mặt công tác đánh địch đạt hiệu quả; nắm được nhiều kế hoạch hành quân của địch để thông báo tới các cơ quan kháng chiến chủ động sơ tán; khám phá nhiều đầu mối, kế hoạch cài cắm nội gián của Mỹ và chính quyền Sài Gòn vào các cơ quan, đoàn thể kháng chiến; diệt ác, trừ gian, bảo đảm an toàn và thông suốt cho các tuyến giao thông...

Lực lượng An ninh thu hồi hồ sơ, tài liệu của địch năm 1975
Ảnh: Tư liệu/Bộ Công an
Ở miền Nam, lực lượng An ninh nhân dân đã kiên trì bám đất, bám dân, diệt ác, phá kìm, đấu tranh kiên cường chống lại cuộc chiến tranh bình định, chiến tranh tâm lý, các hoạt động chiêu hồi, tình báo của địch, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Ban biên tập