

Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố các công cụ bạo lực của cách mạng để trấn áp tội phạm, bảo vệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Trong cao trào Xôviết Nghệ - Tĩnh (1930 - 1931), “Đội tự vệ đỏ” được thành lập để hỗ trợ và bảo vệ quần chúng nổi dậy phá nhà giam, đốt huyện đường, vây đồn lính, bắt giữ bọn hào lý, làm tan rã từng mảng chính quyền tay sai của đế quốc ở cơ sở; bảo vệ cán bộ, bảo vệ các phiên tòa của Xôviết công nông xét xử bọn phản cách mạng; giữ gìn an ninh, trật tự ở những nơi có chính quyền Xôviết. Cuối năm 1931, Xôviết Nghệ - Tĩnh bị đàn áp khốc liệt nhưng đã để lại nhiều kinh nghiệm quý báu về công tác xây dựng và duy trì, phát triển các “Đội tự vệ đỏ”, tiến hành cách mạng phải gắn liền với bảo vệ thành quả cách mạng, về giành và giữ chính quyền.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng (tháng 3/1935) đã thông qua Nghị quyết về Đội tự vệ[1]. Khi cuộc vận động Mặt trận Dân chủ phát triển thành cao trào cách mạng rộng lớn, Trung ương Đảng chỉ thị: Mỗi ấp phải tổ chức ra Đội tự vệ để ngăn cản những kẻ phá rối cuộc đấu tranh và để đối phó với các lực lượng phản động.
[1]. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.90-96.

Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Một năm sau, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, nhân dân ta chịu cảnh “một cổ, hai tròng”. Phong trào cách mạng chịu sự đàn áp, khủng bố ác liệt. Đảng ta rút vào hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật. Đầu năm 1940, Trung ương Đảng chủ trương thành lập “Ban công tác đội” làm nhiệm vụ bảo vệ An toàn khu (ATK), bảo vệ cán bộ cao cấp của Đảng, giải thoát cán bộ khi bị địch bắt. “Ban công tác đội” được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương, được trang bị vũ khí và huấn luyện về kỹ thuật chiến đấu. Ngày 15/5/1945, Xứ ủy Bắc Kỳ thành lập “Đội danh dự trừ gian” do Xứ ủy trực tiếp chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ diệt trừ bọn Việt gian đầu sỏ và vũ trang tuyên truyền, chiến đấu khi cần thiết. Ngày 04/6/1945, Tổng bộ Việt Minh tuyên bố thành lập Khu giải phóng(Cao - Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái); đồng thời, công bố Mười chính sách lớn của Việt Minh. Ngay sau đó, các tổ chức “Đội trinh sát”, “Đội hộ lương diệt ác” lần lượt ra đời cùng với “Đội tự vệ đỏ”, “Ban công tác đội” và “Đội danh dự trừ gian” làm nhiệm vụ thủ tiêu lực lượng của phát xít Nhật, trừ khử bọn Việt gian, trừng trị bọn lưu manh, bảo vệ chính quyền cách mạng, thực hiện Mười chính sách lớn của Việt Minh. Đây là các tổ chức tiền thân của Công an nhân dân Việt Nam.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thử thách. Dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào tước vũ khí của quân Nhật, 20 vạn quân Tưởng mang theo bọn đặc vụ và bọn phản động lưu vong trong các tổ chức “Việt Nam Quốc dân Đảng”, “Việt Nam Cách mạng đồng minh hội” kéo vào miền Bắc nước ta, chiếm đóng từ vĩ tuyến 16 trở ra. Ở miền Nam, 2 vạn quân Anh kéo vào nước ta với danh nghĩa tước vũ khí quân đội Nhật, nhưng thực chất là mở đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 23/9/1945, quân Pháp trắng trợn đánh chiếm Sài Gòn rồi mở rộng đánh chiếm toàn Nam Bộ. Bọn phản cách mạng, bọn phản động lợi dụng tôn giáo và tay sai của Pháp cũng ngóc đầu dậy chống phá cách mạng quyết liệt. Chưa bao giờ trên đất nước ta lại có nhiều kẻ thù như lúc này. Chính quyền cách mạng đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Các lực lượng Liêm phóng, Cảnh sát, Trinh sát, Quốc gia tự vệ cuộc vừa mới thành lập phải bắt tay ngay vào cuộc đấu tranh quyết liệt chống “thù trong, giặc ngoài”, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng Công an nhân dân đã đẩy mạnh các phong trào “Ba không”, “Ngũ gia liên bảo”, phối hợp với các lực lượng vũ trang đấu tranh chống hoạt động do thám, gián điệp và bọn phản động tay sai; bẻ gãy nhiều cuộc càn quét của địch, bảo vệ hậu phương và khu căn cứ kháng chiến. Ở Bắc Bộ, lực lượng Liêm phóng và Cảnh sát nắm vững nguyên tắc, sách lược của Đảng, mưu trí, khôn khéo, huy động sức mạnh đông đảo quần chúng phá tan các cuộc biểu tình phản cách mạng, kịp thời ngăn chặn và bắt nhiều tên cầm đầu đảng phái phản động, tay sai như: Nguyễn Xuân Chữ cầm đầu “Ủy ban chính trị”; Cung Đình Vận - Tuần phủ Thái Nguyên; Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn - thủ lĩnh Quốc dân Đảng và Đại Việt quốc gia liên minh. Ngày 20/11/1945, lực lượng Liêm phóng Kiến An có sự hỗ trợ của Cảnh sát xung phong Hải Phòng đã trấn áp bọn phản động Việt Nam Quốc dân Đảng, bắt 43 tên, thu 24 súng, đập tan âm mưu gây bạo loạn của chúng. Cuối năm 1945, lực lượng Liêm phóng Bắc Bộ kịp thời ngăn chặn hoạt động phá rối của bọn Quốc dân Đảng ở Ngân hàng Đông Dương. Ở các tỉnh Nam Bộ, lực lượng Quốc gia tự vệ cuộc phối hợp với các lực lượng vũ trang, dũng cảm chiến đấu cản bước tiến của quân Pháp. Ngày 23/9/1945, Quốc gia tự vệ cuộc Cần Thơ và Sóc Trăng đã bảo vệ chuyến tàu chở các chiến sĩ cách mạng từ Côn Đảo trở về lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, trong đó có các đồng chí: Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng. Ngày 12/11/1945, Quốc gia tự vệ cuộc Cần Thơ bí mật tập kích vào sở chỉ huy của quân Pháp tại thị trấn Cái Răng, tiêu diệt 20 tên. Tháng 12/1945, lực lượng trinh sát Khánh Hòa đột nhập vào sân bay Nha Trang đốt cháy và phá hỏng 3 máy bay, tiêu hủy 5.000 lít xăng của địch. Đặc biệt, ngày 12/7/1946, Nha Công an Trung ương đã khám phá thành công vụ án phản cách mạng ở số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều, thành phố Hà Nội); phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang nhân dân đồng loạt tấn công, bóc gỡ 40 trụ sở Quốc dân Đảng, bắt trên 100 tên phản động, đập tan âm mưu đảo chính, lật đổ chính quyền cách mạng của thực dân Pháp và bọn phản động[1]. Thắng lợi của vụ án ở số 7 phố Ôn Như Hầu là một thành tích xuất sắc trong công tác đấu tranh chống phản động của lực lượng Công an nhân dân. Chiến công này không chỉ đập tan âm mưu của các phần tử phản động câu kết với đế quốc để cướp chính quyền ở Hà Nội bằng một cuộc đảo chính, mà còn làm cho mọi người thấy rõ bộ mặt phản quốc của tay sai và nhận thức rõ hơn chính sách đại đoàn kết dân tộc của Chính phủ, từ đó củng cố lòng tin vào sự nghiệp cách mạng của Đảng.
[1] Ngày 12/7 hằng năm được lấy là Ngày truyền thống của lực lượng An ninh nhân dân.


Thất bại trong âm mưu câu kết với bọn phản động để lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ, thực dân Pháp điên cuồng mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, đồng thời tiến hành đánh chiếm Hải Phòng và khiêu khích ta ở Thủ đô Hà Nội. Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng Công an nhân dân đã cùng với quân và dân cả nước nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Với tinh thần “Cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh”[1] , lực lượng Công an xung phong Hà Nội và Công an các địa phương đã tham gia tiến công, tiêu diệt, vây hãm địch, bảo vệ an toàn các cơ quan chính quyền, đoàn thể, bảo vệ vận chuyển tài liệu, kho tàng, tài sản quốc dân và tản cư nhân dân ra khỏi vùng có chiến sự. Trong vùng địch tạm chiếm, lực lượng Công an nhân dân đã xây dựng cơ sở nắm tình hình, tham gia diệt ác, phá tề, trừ gian, trấn áp bọn mật thám, phản động nguy hiểm, tổ chức nhiều trận đánh ngay trong lòng địch. Tổ Điệp báo A13 của Ty Điệp báo, Nha Công an Trung ương đã đưa người vào hàng ngũ địch, nắm được nhiều tin tức có ý nghĩa chiến lược phục vụ công tác đánh địch. Ngày 27/9/1950, tại vùng biển Sầm Sơn, Thanh Hóa, Tổ Điệp báo A13 đã sử dụng một khối lượng lớn thuốc nổ đánh đắm Thông báo hạm Amiôđanhvin (Thông báo hạm lớn nhất của Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ), diệt hơn 200 sĩ quan, thủy thủ và binh lính Pháp. Chiến công vang dội đó đánh dấu bước trưởng thành của Công an nhân dân và sự thất bại thảm hại của các cơ quan tình báo, phản gián Pháp, đập tan âm mưu đánh chiếm vùng tự do Khu IV.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.5, tr.44.

Thực hiện chủ trương biến hậu phương địch thành tiền phương của ta, phát triển chiến tranh du kích, phá kế hoạch lập tề của địch, lực lượng Công an nhân dân dựa vào nhân dân, đẩy mạnh các phong trào “Ba không”, “Phòng gian bảo mật”; khám phá nhiều tổ chức phản động, làm tan rã nhiều tổ chức phỉ ở vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc; bảo vệ vùng tự do, các khu du kích, căn cứ địa cách mạng, các cơ quan của Đảng, Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng, bảo vệ các chiến dịch. Ngày 06/12/1953, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ những kinh nghiệm bảo vệ chiến dịch trước đây, lực lượng Công an nhân dân đã thành lập “Ban Công an tiền phương” bảo vệ các cuộc hành quân, trú quân của bộ đội, dân công, bảo vệ kho tàng, bảo vệ lực lượng vũ trang. Trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch, lực lượng Công an nhân dân luôn chủ động nắm tình hình, bảo vệ các lực lượng ở tiền tuyến cũng như trung tuyến, bảo vệ bí mật các kế hoạch quân sự, vận chuyển. Cùng với công tác bảo vệ, lực lượng Công an nhân dân đã bắt hầu hết các toán gián điệp biệt kích do địch tung xuống để điều tra, phá hoại kho tàng, cầu cống, nơi xung yếu trên các tuyến đường giao thông quan trọng từ Thanh Hóa, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Hòa Bình lên Điện Biên Phủ. Đặc biệt, lực lượng Công an nhân dân đã phát hiện và lập chuyên án (bí số TN25) đấu tranh thắng lợi với toán gián điệp Pháp ở Thái Nguyên, góp phần bảo đảm an toàn kế hoạch cho chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần quan trọng vào chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn.

Song song với cuộc đấu tranh bảo vệ trật tự, trị an, một vấn đề đặt ra là lực lượng Công an cần được thống nhất tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Ngày 19/01/1946, Bộ Nội vụ ra Nghị định số 14-NV về tổ chức của Bộ Nội vụ, trong đó có Nha Công an làm nhiệm vụ phụ trách công việc trị an. Tiếp đó, ngày 21/02/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 23-SL “Hợp nhất các Sở Cảnh sát và Liêm phóng toàn quốc thành Việt Nam Công an vụ”. Đồng chí Lê Giản được cử phụ trách Việt Nam Công an vụ. Ngày 18/4/1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ký Nghị định số 121-NV/NĐ quy định tổ chức, nhiệm vụ của Việt Nam Công an vụ. Theo Nghị định, Việt Nam Công an vụ chia làm ba cấp: Ở Trung ương gọi là Nha Công an Việt Nam, đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của Tổng Giám đốc Việt Nam Công an vụ; ở cấp kỳ gọi là Sở Công an, đặt dưới quyền điều khiển của một Giám đốc Công an kỳ; ở cấp tỉnh gọi là Ty Công an, đặt dưới quyền điều khiển của một Ty trưởng. Sở Liêm phóng Bắc Bộ đổi thành Sở Công an Bắc Bộ; Sở Trinh sát Trung Bộ đổi thành Sở Công an Trung Bộ; Quốc gia tự vệ cuộc Nam Bộ đổi thành Sở Công an Nam Bộ. Ở các tỉnh, thành phố đều đổi thành Ty Công an. Việc hợp nhất các lực lượng Liêm phóng, Cảnh sát, Quốc gia tự vệ cuộc và xây dựng tổ chức bộ máy theo Sắc lệnh số 23-SL, ngày 21/02/1946 và Nghị định số 121-NV/NĐ, ngày 18/4/1946 là một sự kiện quan trọng, đánh dấu sự thống nhất về cơ cấu tổ chức bộ máy Công an trong cả nước, là cơ sở quan trọng để lực lượng Công an nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn trật tự, trị an. Tại kỳ họp từ ngày 27 đến ngày 29/8/1953, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết đổi tên Thứ Bộ Công an thành Bộ Công an. Đây là sự kiện đánh dấu bước trưởng thành quan trọng của Công an nhân dân Việt Nam.

Trải qua chín năm kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh, lực lượng Công an nhân dân luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, mưu trí, dũng cảm chiến đấu, lập nhiều chiến công thầm lặng nhưng vô cùng oanh liệt, đấu tranh làm thất bại mọi hoạt động đảo chính, lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân của các thế lực tay sai, phản động; bảo vệ tuyệt đối an toàn khu căn cứ địa cách mạng và các cơ quan đầu não của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân; đấu tranh bài trừ lưu manh, trộm cướp, giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ tính mạng, tài sản và cuộc sống của nhân dân. Nhiều cán bộ, chiến sĩ Công an nêu cao khí phách kiên cường, dũng cảm, lập công xuất sắc, tiêu biểu như các đồng chí: Bùi Thị Cúc (Công an tỉnh Hưng Yên); Võ Thị Sáu (Công an huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu); Nguyễn Thị Lợi (Điệp báo Công an Hà Nội); Cao Kỳ Vân (Công an tỉnh Bắc Giang); Trần Thành Ngọ (Công an thành phố Hải Phòng); Phan Khắc Trình, Trần Bình (Công an thành phố Hà Nội); Bửu Đóa (Công an tỉnh Khánh Hòa); Nguyễn Xuân Thưởng (Công an tỉnh Thừa Thiên - Huế)...
Ban biên tập