Tham mưu kịp thời, toàn diện với Đảng, Nhà nước từng bước hoàn thiện quan điểm, đường lối, chủ trương và hệ thống pháp luật về bảo vệ an ninh, trật tự

17/07/2025

     Quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lực lượng Công an đã quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối chung của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong từng thời kỳ cách mạng, từ đó chủ động nắm, phân tích, đánh giá, dự báo sát, đúng tình hình, kịp thời phát hiện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, các loại tội phạm để tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật, biện pháp công tác, đối sách đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự; giải quyết, xử lý kịp thời những vấn đề mới, phức tạp nổi lên về an ninh, trật tự bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
     Những năm đầu thành lập, lực lượng Công an đã quán triệt chỉ đạo của Đảng và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thực thi nhiệm vụ, đặc biệt là dựa vào nhân dân để thực hiện các mặt công tác. 
     Lực lượng Công an đã phát động phong trào rút kinh nghiệm, mở hội nghị, qua đó rút ra các biện pháp công tác nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ (1947 - 1949); nghiên cứu, thảo luận các đề án: Công an nhân dân Việt Nam, công tác phản gián, công tác huấn luyện, công tác trật tự, công tác căn cước, thu hồi đô thị, đề án công tác tình báo (1950) làm cơ sở, đặt nền móng về lý luận nghiệp vụ công tác công an. Trên cơ sở thực tế đó, lực lượng Công an tham mưu Đảng, Nhà nước về đường lối, chủ trương và pháp luật về bảo vệ trật tự, trị an. Ngày 5/5/1950, lực lượng Công an tham mưu với Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 10-CT/TW về Đảng lãnh đạo Công an, trong đó nêu rõ: “Nhận thức cho đúng vai trò quan trọng của công tác công an trong bộ máy nhà nước dân chủ nhân dân, phổ biến sâu rộng quan niệm công an nhân dân trong Đảng và trong nhân dân... Chấn chỉnh cách lãnh đạo công an, mọi cấp ủy phải phân công một ủy viên phụ trách lãnh đạo công an. Chọn các đồng chí có năng lực cử vào công an để nắm vững đường lối chính sách của Đảng, tổ chức việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho nhân viên công an, phối hợp chặt chẽ các ngành công tác đảng với công tác công an” . Được tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng Công an đã củng cố tổ chức, xác định rõ đường lối, phương châm, nguyên tắc, biện pháp đấu tranh chống phản cách mạng và các loại tội phạm khác, bảo vệ trật tự, trị an vùng tự do và căn cứ. Tiếp đó, lực lượng Công an tham mưu Ban Bí thư Trung ương Đảng phê duyệt 7 vấn đề mang tính lý luận đầu tiên của ngành công an được tổng kết tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 7 (năm 1952): (1) Công tác bảo vệ cơ quan; (2) Công tác điều tra nghiên cứu; (3) Công tác bắt và xét xử; (4) Công tác hỏi cung; (5) Công tác quản chế; (6) Công tác kiểm soát sự ra vào vùng bị tạm chiếm; và (7) Vấn đề công an xã. 
    Đó là những vấn đề cốt lõi, cơ bản về công tác nghiệp vụ công an. Từ năm 1953 trở đi, Đảng lãnh đạo ngành Công an chặt chẽ hơn trước; mọi hoạt động, mọi công tác đấu tranh trấn áp phản cách mạng đều lấy việc bảo vệ các chủ trương, chính sách của Đảng làm nội dung cơ bản. Trong nhiều mặt công tác như gây cơ sở, nắm tình hình, trừ gian, bảo vệ các hoạt động cách mạng ở vùng tạm chiếm,... lực lượng Công an đã nhận định đúng bản chất của gián điệp đế quốc, từ đó tham mưu cho Đảng, Nhà nước đưa ra những quyết định đúng đắn, kịp thời. Đường lối đấu tranh chống phản cách mạng và các loại tội phạm khác của lực lượng Công an dần được bổ sung, phát triển, trở thành bộ phận quan trọng trong toàn bộ đường lối cách mạng của Đảng, có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn đối với mọi mặt hoạt động công tác công an. Qua thực tiễn hoạt động, lực lượng Công an đã tham mưu, đề xuất Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 64-CT/TW ngày 20/2/1954 “Về việc tăng cường lãnh đạo công tác công an”, trong đó nhấn mạnh tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác công an là vấn đề quan trọng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. 
   Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng Công an tham mưu cho Đảng, Nhà nước nhiều văn bản quan trọng về đấu tranh bảo vệ trật tự, trị an phù hợp với đặc điểm, tình hình và nhiệm vụ ở hai miền Nam - Bắc. Trong đó nổi bật nhất là: Nghị quyết số 39-NQ/TW (ngày 20/1/1962) của Bộ Chính trị Trung ương Đảng “Về việc tăng cường công tác đấu tranh chống các bọn phản cách mạng để phục vụ tốt công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh nhằm thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”; Nghị quyết số 40-NQ/TW của Bộ Chính trị (ngày 20/1/1962) “Về vấn đề củng cố và tăng cường lực lượng Công an”, nêu rõ yêu cầu, nhiệm vụ, tiêu chuẩn của công tác xây dựng lực lượng Công an. Nghị quyết số 40-NQ/TW lần đầu tiên chính thức xác định Công an nhân dân mang tính chất vũ trang và nằm trong khu vực an ninh - quốc phòng. Đây là cơ sở quan trọng, định hướng cơ bản, lâu dài để xây dựng và phát triển toàn diện lực lượng Công an trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và những giai đoạn sau.
     Tổ quốc thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ xây dựng, bảo vệ và đổi mới, hội nhập quốc tế, lực lượng Công an căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng thời kỳ đã chủ động nghiên cứu, đề xuất nhiều nội dung mang tính chiến lược phục vụ Đảng, Nhà nước xác định quan điểm, chủ trương, đường lối; tham gia xây dựng nghị quyết Đại hội Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận quan trọng về bảo đảm an ninh, trật tự. Lực lượng Công an thường xuyên nắm chắc và dự báo sát, đúng tình hình từ sớm, từ cơ sở, thực hiện tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước trong việc đề ra và lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, quan điểm có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, lâu dài về bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng Công an nhân dân, qua đó tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế, xã hội, mở rộng hội nhập quốc tế. Đó là: Nghị quyết số 31-NQ/TW ngày 2/12/1980 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới, xác định 6 biện pháp cơ bản của công tác công an; Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 30/11/1987 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới; Chỉ thị số 60-CT/TW ngày 26/5/1990 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới; Nghị quyết số 03-NQ/HNTW ngày 29/6/1992 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, chống diễn biến hòa bình của địch; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 17/12/1998 của Bộ Chính trị về chiến lược an ninh quốc gia; Nghị quyết số 40-NQ/TW ngày 8/11/2004 của Bộ Chính trị về nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác công an trong tình hình mới; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 14/10/2016 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới; Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 5/9/2019 của Bộ Chính trị về chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia; nhiều nghị quyết, chỉ thị và kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Các văn bản chỉ đạo của Đảng về an ninh, trật tự có nội dung sâu sắc, toàn diện, từ xác định mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, phương châm, nguyên tắc, biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia đến giải pháp thực hiện, qua đó đã huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
     Trong lĩnh vực giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, Bộ Công an đã kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác phòng, chống tội phạm nhằm phát huy các nguồn lực phục vụ cuộc đấu tranh: tham mưu với Chính phủ ban hành Nghị quyết số 5/CP ngày 29/1/1993 về ngăn chặn và chống tệ nạn mại dâm; Chỉ thị số 219/TTg ngày 8/4/1997 về tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Bên cạnh đó là các chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm; phòng, chống ma túy; phòng, chống buôn bán người giai đoạn 2010 - 2015 và nhiều đề án khác về công tác bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. 
     Cùng với đó, hệ thống các văn bản luật về an ninh, trật tự ngày càng được hoàn thiện. Bộ Công an đã tham mưu cho Quốc hội thông qua và ban hành Luật phòng, chống ma túy năm 2000; Luật an ninh quốc gia năm 2004; Luật Công an nhân dân năm 2005, 2014, 2018, 2023; Luật cư trú năm 2006, Luật cư trú năm 2013, Luật cư trú năm 2020; Luật đặc xá năm 2017, Luật thi hành án hình sự năm 2010; Luật phòng, chống khủng bố năm 2013; Luật căn cước công dân năm 2014; Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014; Luật an ninh mạng năm 2018; Luật bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018; Luật xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019; Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ năm 2024; Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024; Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp năm 2024... Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh lực lượng An ninh nhân dân năm 1987 và Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát nhân dân năm 1989. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Tình báo, Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000; Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004; Pháp lệnh Cảnh vệ năm 2005; Pháp lệnh Bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia năm 2007; Pháp lệnh Công an xã năm 2008; Pháp lệnh Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ năm 2011; Pháp lệnh Cảnh sát cơ động năm 2013... 
     80 năm qua, Bộ Công an đã tham mưu hoàn thiện định hướng lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước về lĩnh vực an ninh, trật tự; xác định những vấn đề cơ bản, cốt lõi trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về an ninh, trật tự, đó là:
     Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Nhận thức sâu sắc và đầy đủ nguyên tắc trên, Bộ Công an đã kiến nghị Đảng, Nhà nước bổ sung, phát triển, hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý đối với lực lượng vũ trang, chăm lo xây dựng tổ chức Đảng trong Công an nhân dân. Năm 1990, Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 110-QĐ/TW về việc thành lập Đảng ủy Công an Trung ương, đánh dấu bước chuyển từ cơ chế lãnh đạo bảo đảm sang lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt công tác công an. Từ đó đến nay, qua các văn kiện của Đảng, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Luật Công an nhân dân các năm 2005, 2014, 2018 đều khẳng định quan điểm này. Từ Đại hội XII, các đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ được Bộ Chính trị chỉ định tham gia Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương, tăng cường sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với lực lượng Công an nhân dân. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng tiếp tục khẳng định: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh” . 
     - Nhận thức đầy đủ về an ninh quốc gia và vị trí của nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Trước năm 1986, an ninh quốc gia được xác định chủ yếu là an ninh chính trị, từ năm 1986 đến nay, nội hàm an ninh quốc gia mở rộng hơn, gồm: an ninh lãnh thổ, an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh văn hóa tư tưởng, an ninh thông tin, an ninh trên lĩnh vực tôn giáo, dân tộc, an ninh nông thôn, đô thị và các vùng chiến lược, an ninh phi truyền thống... Trong Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 5/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Đảng xác định: An ninh quốc gia là sự vững mạnh, trường tồn của Đảng, sự ổn định, phát triển bền vững về mọi mặt của đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; là sự ổn định về chính trị, về biên giới, chủ quyền lãnh thổ và an ninh, an toàn xã hội. Trong mọi thời kỳ, Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Công tác này cùng với nhiệm vụ bảo vệ quốc phòng được xác định là “trọng yếu, thường xuyên” trong sự nghiệp cách mạng.
     - Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội; phối hợp có hiệu quả hoạt động an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Đây là quan điểm xuyên suốt trong các văn bản do lực lượng Công an tham mưu với Đảng, Nhà nước về công tác bảo vệ an ninh, trật tự. Quan điểm này dựa trên cơ sở kế thừa, đúc rút bài học kinh nghiệm trong lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Mục đích duy nhất của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân là tự vệ và hòa bình để tạo điều kiện thuận lợi xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Ngược lại, xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại là một bước tạo điều kiện để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Sự kết hợp giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia là cần thiết để tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia nhằm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. 
     - Xử lý đúng đắn mối quan hệ đối tác - đối tượng trong bảo vệ an ninh quốc gia. Trước năm 1991, tư duy bạn - thù thể hiện trong các văn bản của Đảng, Nhà nước phân biệt rõ, mang đậm ý thức hệ giai cấp và sự đối lập giữa chủ nghĩa xã hội và tư bản chủ nghĩa. Trong tình hình cục diện thế giới, khu vực có nhiều biến động cùng với quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển của khoa học công nghệ đang diễn ra với tốc độ chưa từng có, vấn đề nhận thức và giải quyết các mối quan hệ về đối tác và đối tượng cần có sự thay đổi. Để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, trên cơ sở kế thừa quan điểm về đối tác - đối tượng qua các giai đoạn cách mạng, Đảng ta xác định: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đều là đối tượng của chúng ta” . Đồng thời chỉ rõ tính hai mặt của đối tác - đối tượng để quán triệt đấu tranh và hợp tác là: “Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta, cần phải đấu tranh”2. Quan điểm này giúp cho việc ứng xử, khắc phục khuynh hướng mất cảnh giác và cứng nhắc trong nhận thức và xử lý tình huống phức tạp trong nước và quốc tế tác động đến lợi ích và an ninh quốc gia một cách hiệu quả, vừa bảo đảm tính nguyên tắc, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, tránh bị cô lập, đối đầu. 
     - Chủ động phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia. Đảng ta nhấn mạnh: Kết hợp chặt chẽ giữa chủ động tấn công với chủ động phòng ngừa, lấy chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính. Trong đấu tranh, xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, phải: giữ vững nguyên tắc chiến lược, có sách lược mềm dẻo, linh hoạt; xử lý các vấn đề có liên quan đến an ninh, trật tự một cách cương quyết, khôn khéo; chủ động phát hiện, đánh địch từ xa, từ nơi xuất phát, từ trung tâm, sào huyệt của địch. Những quan điểm này trở thành phương châm trong đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự.
     - Khẳng định vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Xuất phát từ vị trí, vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định nhân dân là cội nguồn sức mạnh của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Do đó, ngay từ khi ra đời, lực lượng Công an đã “dựa vào dân để làm việc”. Từ năm 1986 đến nay, nhận thức rõ vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự càng sâu sắc hơn, từ đó hình thành khái niệm “thế trận an ninh nhân dân”, “thế trận lòng dân”. Từ vị trí, vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, trong Luật an ninh quốc gia, Luật Công an nhân dân đều khẳng định một trong bảy biện pháp công tác công an là vận động quần chúng.
     - Phát huy sức mạnh tổng hợp và cơ chế phối hợp giữa Công an với các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội trong bảo vệ an ninh, trật tự. Bảo vệ an ninh, trật tự là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, các ngành, các cấp, các lực lượng nhằm chủ động ngăn chặn, đẩy lùi, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch. Sức mạnh của hệ thống chính trị thể hiện trong cơ chế phối hợp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội giữa các cấp, các ngành dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, trong đó Công an nhân dân là nòng cốt. Quan điểm về sức mạnh tổng hợp trong bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là quan điểm cơ bản, xuyên suốt trong các nghị quyết Đại hội Đảng và thể hiện đầy đủ, hoàn thiện hơn trong Nghị quyết số 08-NQ/TW về Chiến lược an ninh quốc gia, Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và các chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng về an ninh, trật tự. 
      Lực lượng Công an đã thực hiện tốt công tác tham mưu chiến lược cho Đảng, Nhà nước trong việc ban hành, chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do vậy, hệ thống pháp luật về bảo đảm an ninh, trật tự đã được xây dựng, bổ sung, ngày càng hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, vững chắc cho công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Đây là một trong những nhân tố quan trọng, quyết định thành công của lực lượng Công an trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.

Ban Biên tập

In
Chia sẻFacebook