Một trong những nội dung sửa đổi lớn của dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi) lần này là bổ sung chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân; việc bổ sung này hoàn toàn khác với quy định của pháp luật hình sự của Nhà nước ta từ trước đến nay, trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với cá nhân người phạm tội. Theo Điều 76 dự thảo Bộ luật thì pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về 39 tội danh; đó là tội mua bán người (Điều 149); tội mua bán trẻ em (Điều 150); tội buôn lậu (Điều 190); tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 191); tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 192); tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 193); tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 194); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm (Điều 195); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 196); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 197); tội trốn thuế (Điều 204); tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ (Điều 207); tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán (Điều 213); tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 214); tội thao túng giá thị trường chứng khoán (Điều 215); tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 217); tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 220); tội vi phạm quy định về cạnh tranh (Điều 221); tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 223); tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 224); tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác khoáng sản (Điều 225); tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (Điều 228); tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã (Điều 234); tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 231); tội vi phạm quy định về xử lý chất thải nguy hại (Điều 232); tội vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường (Điều 233); tội vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình thủy lợi, hồ chứa, liên hồ chứa, đê điều và công trình phòng, chống thiên tai (Điều 234); tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 236); tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Điều 239); tội huỷ hoại rừng (Điều 240); tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ (Điều 241); tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 242); tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Điều 243); tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người (Điều 307); tội tài trợ khủng bố (Điều 313); tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm (Điều 317); tội rửa tiền (Điều 336); tội nhận hối lộ (Điều 367); tội đưa hối lộ (Điều 377); tội không chấp hành án (Điều 393).
Theo dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi), pháp nhân phạm tội sẽ bị áp dụng một trong những hình phạt chính là phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung là cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn; ngoài ra pháp nhân phạm tội có thể bị áp dụng các biện pháp tư pháp là tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm, trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi, khôi phục lại tình trạng ban đầu, thưc hiện một số biện pháp nhằm khắc phục ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.
Liên quan đến việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân của dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi) còn nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến tán thành việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân nhưng cũng có nhiều ý kiến không nhất trí với việc bổ sung chế định này. Chúng tôi cho rằng đây là vấn đề lớn và mới cả về lý luận và thực tiễn ở nước ta, do đó, đề nghị cân nhắc thận trọng và chưa nên bổ sung quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân vào Bộ luật hình sự (sửa đổi) lần này bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, về kinh nghiệm quốc tế: Đến nay tuy đã có một số nước quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân nhưng cũng còn nhiều nước không quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Ở đây cần phải làm rõ mỗi nước có chế độ chính trị, kinh tế, truyền thống lập pháp riêng của mình và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Việc tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài trong lập pháp hình sự là cần thiết nhưng phải tham khảo có chọn lọc và chỉ tham khảo kinh nghiệm phù hợp với thực tế của nước ta. Phải hết sức tránh tình trạng các nước quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thì Việt Nam cũng phải quy định. Mặt khác, đến nay ta chưa có tổng kết toàn diện kinh nghiệm nước ngoài; chưa đánh giá những tác động mặt trái của việc quy định này. Vì vậy, đề nghị cần phải tìm hiểu các nước không quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân để có cách nhìn toàn diện hơn.
Thứ hai, theo pháp luật của Nhà nước ta từ trước đến nay, trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với cá nhân, tức là theo nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Trường hợp pháp nhân vi phạm pháp luật thì phải chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự với chế tài cao nhất là tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn, bồi thường toàn bộ thiệt hại gây ra. Các biện pháp xử lý hành chính, dân sự này cơ bản đã bảo đảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật của pháp nhân (cơ bản giống với các biện pháp xử lý hình sự theo đề xuất của cơ quan chủ trì soạn thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi)), đáp ứng yêu cầu của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân như tước giấy phép vĩnh viễn - buộc pháp nhân phải giải thể sẽ ảnh hưởng đến người không liên quan đến việc thực hiện tội phạm, nhiều người lao động sẽ mất việc làm, ảnh hưởng đến an sinh xã hội, trật tự xã hội, sự phát triển của nền kinh tế.
Thứ ba, theo dự thảo Bộ luật thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân. Có nghĩa là cả cá nhân và pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự về cùng một tội phạm, trong cùng một vụ án, như thế rất khó xác định phạm vi, mức độ chịu trách nhiệm của từng chủ thể cũng như rất khó áp dụng hình phạt. Vấn đề này cũng chưa được quy định trong dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi). Nói cách khác, trong dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi) chưa dự kiến được hết những hệ lụy của việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Mặt khác, dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi) chỉ quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với 39 tội là không đảm bảo nguyên tắc công bằng của pháp luật hình sự. Hơn nữa, chưa có tổng kết thực tiễn nào để xác định pháp nhân chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với các tội này.
Thứ tư, về tố tụng hình sự: Khi mà cả cá nhân và pháp nhân cùng phải chịu trách nhiệm hình sự thì ai là chủ thể tham gia tố tụng của pháp nhân, thủ tục tố tụng ra sao, áp dụng các biện pháp ngăn chặn như thế nào… Những vấn đề này chúng ta chưa có kinh nghiệm thực tiễn và cũng chưa được quy định trong dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi), rất khó áp dụng trong thực tiễn.
Thứ năm, về phương diện lý luận, việc bổ sung quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân vào Bộ luật hình sự (sửa đổi) làm thay đổi cơ bản hệ thống lý luận về trách nhiệm hình sự, cũng như thay đổi chính sách hình sự của Nhà nước ta. Do đó, cần phải hết sức thận trọng để quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật hình sự (sửa đổi) nhằm đảm bảo các quy định của pháp luật hình sự phù hợp với thực tiễn Việt Nam và có tính khả thi cao./.